Thứ Tư, 28 tháng 2, 2018

CHUYẾN TÀU ĐÊM (1).

Chuyến tàu đêm cuối năm con gà đưa tôi từ vùng đất văn chương nghệ thuật bay bướm nhưng hết sức lè phè của Paris trở về với nước Đức triết học kỷ luật chặt chẽ lý luận thâm sâu. Văn chương bay bướm hay triết học khô khan vốn từ lâu không thích hợp với những người Sài Gòn xuề xòa đơn giản thích ca vọng cổ: Thương em chẳng biết để đâu, để trong khẩu súng lâu lâu anh bóp cò.

Tàu chạy êm ru nhưng không thể ngủ được vì còn nhớ cảnh bạn bè cũ kỷ già chát chia tay lưu luyến run rẩy vì lạnh giá trên sân Gare de l’Est. Không thể ngủ được cũng vì khách đang ngồi tại băng ghế phía đối diện là hai anh chàng “rệp” mà xem ra dáng vẻ cũng chẳng được đàng hoàng. Mắt họ cứ láo liên nhìn lén tôi. Nhớ hôm còn ở Paris một người trong đoàn khi đi chơi phố một mình đã bị lấy mất chiếc điện thoại tại một trạm metro, người này kể lại có mấy người da màu làm bộ chen lấn lên tàu rồi ra tay móc túi. Cũng may không mất hộ chiếu, người này tự an ủi mà mặt buồn xo.

Một con mắt của tôi lim dim nhớ về những ngày xưa cũ, một con mắt lim dim để ý tới hai con “rệp” ngồi đối diện. Tôi rơi vào trạng thái triết học “song nhãn, nhị trùng”.

Nhìn mặt người mà bắt hình dong rồi suy ra tâm địa con người là không nên, nhưng biết làm sao bây giờ. Mấy người nhập cư da màu lúc này tung hoành làm ăn dữ lắm từ Pháp sang Đức. Tiếng Pháp của bọn chúng tôi khá lơ mơ, tiếng Đức thì mù tịt, còn tiếng Anh đủ để nghe và nói chớ viết thì hơi mệt. Nếu lỡ xảy ra chuyện gì mà phải trình báo với cảnh sát bằng văn bản tiếng Anh thì sẽ rất lôi thôi vì có khi làm cho cảnh sát hiểu nhầm: Mình bị móc túi mà cảnh sát tưởng mình là thằng móc túi.

Nhìn hai con “rệp” rồi nhớ lại hồi nhỏ còn đi học ở Sài Gòn tôi cũng không được bạn bè tôn trọng lắm do cái dáng vẻ bên ngoài không hay. Thuở ấu thơ nghịch ngợm bị té nên lưng tôi gù. Tự an ủi: Coi lù đù vậy chớ lớn lên thường vác lu chạy tới chạy lui.

Năm lớp tám lớp chín bạn bè đọc được cuốn tiểu thuyết Pháp dịch ra tiếng Việt của nhà văn Victor Hugo nên trêu chọc tôi là “thằng gù ở nhà thờ Đức Bà Paris”. Mấy chục năm sau tình cờ có dịp gặp lại họ vẫn đùa như vậy nhưng tôi chẳng hề buồn, lại thấy nó hay hay. Dễ gì giống được một nhân vật trong tiểu thuyết Pháp suốt mấy chục năm dài như vậy?

Lên lớp 12 được học môn triết tôi có thêm cái tên khác là “Kant”. Kant một triết gia người Đức. Không phải tôi học giỏi môn triết như ông Kant, chẳng qua họ thấy hình dáng lúc đang tuổi dậy thì của tôi giống con Căng-gu-ru bên xứ Úc Châu, nên gọi tắt là Kant. Tôi cũng chẳng biết giận hờn, cũng chẳng thèm buồn. Ai muốn gọi tôi là “Thằng gù” cũng được mà gọi “Kant” cũng được.

Chương trình lớp 12 trung học ở Sài Gòn trước năm 1975 có dạy môn triết học (tư sản), đến sau năm 1975 thì chính quyền mới đã loại bỏ các môn học đó. Tùy theo từng ban A (sinh hóa), B (toán lý), C (văn chương), D (cổ ngữ)… mà số giờ triết học được dạy nhiều hay ít. Triết học hồi đó được phân ra các môn: đạo đức học, lý luận học, tâm lý học, siêu hình học. Hai thầy dạy triết năm 1974- 1975 tại trường VTT là thầy Nguyễn Phúc Lộc dạy lý luận và đạo đức, thầy Nguyễn Đình Sinh dạy tâm lý.

Môn siêu hình học chỉ dành cho học sinh lớp 12 ban C và ban D nhưng trường VTT vào niên khóa 1974- 1975 không đào tạo ban D, chỉ còn một lớp ban C rất ít học trò (khoảng mười lăm người). Mỗi lần tới giờ siêu hình học thì trường VTT gởi học trò ban C sang trường Petrus Ký (trường Lê Hồng Phong bây giờ) học nhờ vì tại trường VTT không có thầy dạy môn này.

Thú thực hồi trước 1975 học triết thì học cho sang vậy chớ chẳng học trò nào cùng lớp với tôi hiểu được gì. Hình như chương trình triết học lớp 12 là rập khuôn theo đúng chương trình của người Pháp để lại sau năm 1954 nên thuật ngữ triết học bằng tiếng Việt không được quen thuộc dễ nghe lắm với học trò trung học người Việt, nó lai giữa Tàu và Pháp. Học trò Pháp có tư tưởng triết học từ lâu, còn học trò Việt như bọn tôi hồi đó chắc chưa có.

Các thuật ngữ như: Bản ngã, tha nhân, nguyên nhân đệ nhất, hiện sinh, nhị trùng, siêu hình, phản đề, chính đề, tam đoạn luận… được đưa vào các đoạn văn dài lê thê rất khó nuốt. Nhà in in sai cũng nhiều chắc do thợ sắp chữ cũng không quen với mấy chữ lạ này.

Nếu để dành mớ sách vở triết học in trước năm 1975 cho tới tuổi bốn mươi chăm chú đọc lại thì may ra có thể hiểu được chút chút. Nhưng mà sau năm 1975 sách vở triết học in ở Sài Gòn bị coi như bất hợp pháp nên chắc chẳng học trò Sài Gòn nào dám giữ lại. Mà giữ lại chắc cũng chẳng ích lợi gì, chẳng thể hiểu thêm gì. Nhất là với hoàn cảnh cơm áo gạo tiền khó khăn sau năm 1975 thì việc đọc sách quả là xa xỉ.

Niên khóa 1974- 1975 trong chương trình lớp 12 còn có thêm được hai giờ Việt văn, trong khi ở các niên khóa trước thì lớp 12 chưa được học Việt văn. Thầy dạy môn Việt văn năm đó là thầy Lý Đức Cửu. Việt văn lớp 12 của niên khóa 1974- 1975 khác với các lớp dưới, có thể tạm gọi là “văn-triết”, tức pha giữa văn chương và triết học. Khổ nỗi, văn chương Việt vốn nghèo nàn còn triết học Việt thì coi như chưa bao giờ có, nên chương trình “văn-triết” là cái chi chi thì không trò nào hiểu được, mà chắc các thầy cũng bối rối chẳng biết phải dạy cái chi. Nhưng học trò phải ráng mà học gạo, vì cuối năm lớp 12 phải đi thi Tú tài, mà trước năm 1975 hễ thi cử thì phải thi đủ các môn chớ không phải chỉ thi ba hay bốn môn chính như thời bây giờ.

Ba thầy Lộc, Sinh, Cửu đều là người Bắc di cư đã tốt nghiệp trường Đại học Văn khoa và trường Đại học sư phạm tại Sài Gòn. Họ ăn nói rất lưu loát (người Bắc nhiều lý luận mà), trình độ sư phạm khá cao nhưng nói chung không thể nhét các thuật ngữ triết học hay văn triết lạ hoắc nửa Tàu nửa Tây vào đầu học trò được.

Sau năm 1975 tôi thấy chương trình triết học Mác-Lê và các chương trình lịch sử, kinh tế chính trị được dạy trong các trường đại học cũng vấp phải các khó khăn tương tự, do nguyên nhân và kết quả khá giống nhau: Cả thầy lẫn trò chắc chẳng ai hiểu được con mẹ gì hết để mà dạy và học!

Với lại... tại các nước khác như bên Nga hay bên các nước Đông Âu người ta đã từ bỏ hết, đoạn tuyệt hết với các môn học cà chớn kiểu đó lâu rồi, chỉ có nước mình là thích làm chuyện khác người ráng mà giữ lại. Nhiều người nói do đã mấy chục năm đào tạo ra quá nhiều giáo viên dạy mấy môn đó, nay bỏ đi thì số người dư dôi này biết nhét vô đâu?

Hồi học đại học sau năm 1975 mỗi lần thi các môn triết Mác-Lê hay lịch sử mới, kinh tế chính trị… bọn sinh viên chỉ mong được năm điểm, thầy giáo thường coi mặt mà bắt hình dong chấm điểm, thằng nào vào lớp chăm chỉ và tính tình dễ thương thì cho ngay năm điểm. Có thầy còn chấm điểm chữ đẹp và viết sạch nữa. Việc quay cóp viết bài thi y như trong sách cũng khá bình thường, các thầy biết hết nhưng làm lơ. Có thầy còn nói: Phải viết cho giống trong sách, đứa nào tự sáng tác mà sai quan điểm là coi chừng!

Bốn chục năm qua đường đời trắc trở, bọn học trò VTT niên khóa 1974- 1975 chỉ còn một ít ở lại Sài Gòn, số nhiều đã tìm cách qua Mỹ và Châu Âu sống. Cả thầy lẫn trò cũng có người hát “Ok, mình chia tay” với trần thế từ lâu lắm rồi, nhất là chết chìm ngoài biển trong thời gian có phong trào vượt biên. Thầy Lộc mất sớm vì ung thư, thầy Sinh và thầy Cửu hình như còn tiếp tục đi dạy nhưng xuống làm giáo viên cấp hai. Tôi cũng không gặp lại các thầy ấy sau năm 1975 vì phải bỏ Sài Gòn đi lao động kiếm cơm ở vùng xa khá sớm.

Học triết suốt một năm lớp 12 mà tới giờ tôi chỉ nhớ được một hai câu dễ nhớ. Đó là: “Triết học là môn học để đi tìm nguyên nhân đệ nhất” và “Chẳng ai tắm được hai lần trong cùng một dòng sông”. Năm 1985 bắt đầu làm nghề sông nước, ngày nào cũng chuổng cời tắm sông, có khi tôi tắm trên cùng một dòng sông tới mấy chục lần, nên chẳng hiểu tại sao người xưa dạy học trò cái câu chi mà lạ vậy?

Câu hỏi “nguyên nhân đệ nhất” hay những câu hỏi “tại sao” đeo bám cuộc đời của mỗi người học trò cho tới chết: Mình là ai? Là người hay là con Căng-gu-ru? Tại sao trên cuộc đời này lại hiện hữu cái mặt mốc xấu quéc của mình? Mình có thể thay đổi số phận và nhan sắc được không? Khi chết đi thì mình sẽ thành cái con gì? Trí thức có linh hồn thiêng liêng cao quí hay nói như Mao: Trí thức là cục cứt?

Năm nay đã sáu mươi rồi, những câu hỏi đó mình không thể tự trả lời mà cũng chẳng ai trả lời giùm, nên cứ thắc mắc và chắc chắn là thắc mắc cho tới chết. Lim dim nhìn hai con “rệp” lại tự hỏi: Ta sao ta với mi rất khác nhau? Tại sao ta nghi ngờ mi sẽ móc túi ta trong khi ta với mi cũng cùng là con người?

Những câu hỏi đó quả thực là những câu hỏi triết học, nó cùng với những câu hỏi đời thường chẳng ai giải thích được hay đã từng được giải thích nhiều lần rồi mà chẳng ai đồng ý với ai.

28/02/2018.
Momentatary

Không có nhận xét nào: