Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

NHỮNG "MỤ" HUẾ VANG BÓNG XƯA NAY...

Mới tháng trước, cộng đồng facebook hỏi nhau tiếng Huế “mụ” nghĩa là chi? Nghe hỏi mà giật mình. Ui chao, giọng Huế thì ai cũng thích nghe, nhưng quả có nhiều ngữ nhiều từ người nghe nơi khác không tài nào hiểu hết.

"MỤ" LÀ CHI RỨA ?
“Mụ” tiếng Huế có nhiều nghĩa:

- Phần lớn người Huế dùng từ “Mụ” đề chỉ người chị gái hay em gái của ôn mệ (ông bà) nội, ngoại. (Ví dụ: Em kế mệ nội tui là mụ Diễm…);- Gọi chị hay em gái “mụ chị”, “mụ dì”. Hò Huế có câu “Đây vốn thiệt là con mụ chị, cháu gọi thiếp bằng dì/ lẽ chi cháu nằm cháu khóc mà mụ dì lại không ru?”. Lại gọi “mụ o” chỉ bà cô - người phụ nữ là chị hay em của bố.

-“Mụ gia”: từ chỉ tên gọi bà sui gia (bà sui), mẹ chồng hay mẹ vợ. Ca dao Huế: “Mụ gia ba bảy mụ gia/ Thương chồng phải khóc mụ gia, gẫm tui với mụ có bà con chi!”.

- “Mụ vợ”, từ để chỉ bà vợ. “Mụ vợ tui”, tức là “người vợ của tôi”, một số nơi gọi là “nhà tôi”. “Mụ mi” từ dùng để chồng gọi vợ (ví dụ: Mụ mi ơi ra đây tui nói cái ni). Các vùng trong Nam gọi là “mình ơi”.

- “Mụ mối”: từ chỉ người làm mai làm mối cho người ta nên vợ nên chồng thưở xưa. Mụ mối là người có danh phận đàng hoàng trong xã hội cũ.

- “Mụ tra”: chỉ người phụ nữ lớn tuổi.

- “Mụ vú”: từ chỉ người phụ nữ lo việc săn sóc sản phụ và trẻ con khi vừa mới sinh.

- “Bà Mụ”, là tên gọi nữ thần phù hộ cho con nít mới sinh, thường trẻ em tròn 1 tháng tuổi người Huế tổ chức cúng đầy tháng, gọi là “Cúng Mụ”.

- Mụ (Mệ): Ngày xưa trong dòng hoàng phái, bên cạnh việc gọi người đàn ông là “mệ”, đôi khi cũng gọi là “mụ”.

- Mụ nớ: chỉ người phụ nữ ngôi thứ 3 - mụ kia. (ví dụ: Mụ nớ thiệt thà lắm).

- Mụ cô mi: cụm từ dùng để chửi rủa…

Vậy, từ “mụ” trong tiếng Huế đa phần là đại từ chỉ người phụ nữ có quan hệ thân thiết trong gia đình. Từ “mụ” khi dành để gọi người phụ nữ ngoài xã hội cũng là cách gọi trân trọng. Cũng có những từ ghép có chữ “mụ” dùng để chửi rủa, miệt thị… Từ “mụ” nhiều khi được dùng như từ “bà” ở các nơi khác (mụ nớ, bà kia)...

VÀI "MỤ" NỔI TIẾNG TRONG DÂN GIAN HUẾ
“Mụ”, “Mệ” nổi tiếng trong chốn cung đình thì nhiều, ở đây nhớ đến vài “mụ” mà dân gian nhắc mãi, như mụ Cửu Ới, mụ Liếc, mụ Rớt, mụ Đợi…

- Mụ Liếc đi vào trong tâm thức dân gian Huế là người phụ nữ mập mạp, to lớn hơn người. Có lẽ mụ là người đàn bà nặng nhất Huế xưa nay. Mụ làm nghề thầu bến đò Thừa Phủ, chuyên ngồi trên bến thâu tiền chứ không dám xuống đò vì sợ đò... chìm.
Xưa có câu đố:
“Mụ chi vóc dáng đẫy đà
Khuôn trang đầy đặn thịt thà nở nang
Ăn làm răng nói làm răng
Xích lô sợ chạy, đò ngang sợ chìm?”.

Trả lời:
“Mụ Liếc vóc dáng đẫy đà
Nặng gần hai tạ ngó mà sướng ghê
Phần trên phía dưới đề huề
Ngồi xe, xe xẹp, ngồi ghe, ghe chìm”.

- Mụ Rớt là danh nghệ chủ nhân món bún bò giò heo Huế nổi tiếng những năm 1960,1970 ở vùng Gia Hội. Hồi đó qua cầu Gia Hội, về sau lưng chùa Diệu Đế có một căn nhà nhỏ bán bún bò. Quán không đề tên bảng hiệu, vậy mà lúc nào cũng đông người tìm đến ăn bởi “tiếng lành đồn xa”. Bún bò mụ Rớt nấu rất khéo, tô bún ở hàng 'ngon nhất trần gian'. Tô bún ý nhị với những sợi bún trắng, miếng giò heo đầy đủ da, nạc, xương, cộng thêm vài lát thịt bò xắt mỏng nổi bật những đường gân trắng ngà, ớt đỏ, hành ngò xanh, chan thêm vá nước dùng trong vắt mà rất thấm đượm. Tô bún không quá lớn đúng kiểu ăn thanh cảnh của người Huế, dễ cho người ăn vừa bưng, vừa húp, vừa và xì xà xì xoạp, miệng hít hà ớt cay, vô cùng khoái khẩu.

Trong nỗi nhớ quê nhà từ phương xa, nhiều người Huế nhớ hình ảnh tô bún Mụ Rớt như niềm thương nhớ món ngon mẹ hiền xưa… Học giả Vương Hồng Sển có lần ăn xong về da diết nhớ. Trong bài “Lai rai nhớ lại những món ăn Huế”, ông kể: “Cái mụ buôn bán lạ kỳ: ăn một tô chưa thấm tháp vào đâu, vì tô có một chút nhéo. Kêu thêm tô thứ nhì, ăn lưng lửng biết mùi, kêu tiếp tô thứ ba, mụ trả lời cộc lốc: “Hết rồi”!... Một người nướng thịt biệt tài dường thế, chết thật uổng”.
Dân gian Huế có câu đố:
“Mụ chi nổi tiếng ầm ầm
Chưa đi đã té, chưa cầm đã rơi
Ngày nay mụ đã qua đời
Mà trong thiên hạ lắm người mượn tên”.
Trả lời:
“Mụ Rớt nổi tiếng ầm ầm
Ngự Viên, Gia Hội ai nhầm được tên
Tiếc thay phần số không bền
Chu du thiên cảnh sống miền thiên thai
Thế gian thương mụ nhiều tài
Bún bò tên mụ ăn hoài chẳng no”.

- Mụ Cửu Ới nổi tiếng cái món thuốc lá Cẩm Lệ những năm 1960. Không chỉ dân Thừa Thiên đều hút thuốc của mụ pha chế, ngay dân các tỉnh lân cận như Quảng Trị, Quảng Nam cũng gởi mua cho được thuốc Cẩm Lệ của mụ. Có điều thú vị là thuốc lá Cẩm Lệ lại do làng Cẩm Lệ thuộc tỉnh Quảng Nam sản xuất, mụ Cửu Ới đưa ra Huế "phù phép" thành thứ thuốc khiến người ta ghiền. Dễ đến nửa thế kỷ, thuốc Cẩm Lệ đã gắn bó với sinh hoạt nhiều gia đình người Huế từ những năm 1960…

Các mụ nói trên giờ đã đi vào cõi sương mù, cái tên Bún bò Mụ Rớt ở Huế nhiều người treo biển, nhưng là mượn danh mà thôi. May thay, món Bún bò Mụ Rớt hiện con cháu vẫn còn giữ công thức gia truyền tại Kim Long Quán ở đường Trần Quang Diệu, quận 3, TP. Hồ Chí Minh.

- Nhưng Huế đương đại thì hiện vẫn còn “Bánh canh Mụ Đợi”. Bánh canh Mụ Đợi nguyên thủy nằm ở con hẻm nhỏ ở đường Đào Duy Anh - Huế. Quán cũng không bảng hiệu, ấy nhưng có gần 35 năm tồn tại, lại là nơi dừng chân của đông đảo thực khách. Tô bánh canh ở đây được nấu riêng cho từng khách, khi khách đến quán mới bắt đầu nấu nước và thả bột, lấy chả, bóc tôm để đảm bảo cho tô bánh canh luôn tươi nóng. Làm vậy nên thời gian chế biến rất lâu, chờ lâu nên cái tên "Đợi" được hình thành và được truyền miệng, trở thành thương hiệu “Bánh canh Mụ Đợi”. Ngoài việc tô bánh canh chỉ có mấy sợi bột theo kiểu hương hoa, muốn ăn thêm thì phải kêu trước thêm tô nữa; nó còn có điểm khác biệt là muốn thưởng thức thật ngon thì thực khách tự mình phải thật chi ly trong vấn đề thêm gia vị. Thực khách tự mình nêm muối, bột ngọt, tiêu, tương ớt, hành ngò sao cho hợp với khẩu vị, vô cùng dân chủ, tự do.

Hiện nay thì “Bánh canh Mụ Đợi” đã được rất nhiều người biết đến. “Bánh canh Mụ Đợi” đã mở thêm vài chi nhánh ở đường Nguyễn Trãi và đường Ngô Gia Tự. Thế nhưng nhiều người vẫn muốn tìm về con hẻm nhỏ ngày xưa.

Bài, ảnh: VÕ TRIỀU SƠN
(BNQ t/h)
.......................
Chú thích ảnh:
1) Nhiều thực khách tìm đến Kim Long Quán để thưởng thức hương vị bún bò Huế ngày xưa.
2) Tô bún bò giò heo Mụ Rớt do con cháu chế biến theo công thức gia truyền nay còn lưu giữ tại Kim Long Quán, quận 3, TP. Hồ Chí Minh
3) Bánh canh Mụ Đợi, khách tự nêm nếm gia vị cho riêng mình.

CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG

CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG ( SIDDHARTHA)
Hermann Hesse
Quyển "Câu Chuyện Dòng Sông" dịch từ truyện " Siddhartha" trong tập Weg Nach Innen ( Đường về nội tâm) của Hermann Hesse .
Hermann Hesse là một văn hào của văn học Đức thế kỷ XX, sống cùng thế hệ Thomas Mann, Werfel, Wassermann, & E.V. Salomon.
Hermann Hesse  sinh năm 1877, được thưởng giải Nobel năm 1946, tác giả nhiều tập thơ và nhiều cuốn tiểu thuyết bất hủ như Peter Camenzind (1904) Demian (1919) Der Steppeppwolf (1927) Narziss und Goldmund (1930) Das Glaserlenspiel(1943).
Tất cả tác phẩm của Hermann Hesse đều nói lên niềm cô đơn tâm linh của con người thời đại, nỗi thao thức triền miên của những tâm hồn khát khao đi tìm một chân trời mới cho mình và nhất là những nỗ lực vô hạn để vươn lên mọi ràng buộc của thân phận làm người. Trọn tác phẩm của Hermann Hesse là lời thánh ca bay vút lên chín tầng trời, vọng lên nỗi đau đớn vô cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người, dù bơ vơ bất lực mà vẫn luôn luôn tha thiết đi tìm giải thoát ra ngoài mọi giới hạn tầm thường của đời sống tẻ nhạt:
"Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này’’
Khi viết dòng thơ trên phải chăng Hermann Hesse đã muốn nói lên tất cả ý nghĩa của sự nghiệp văn chương ông giữa cơn biến động phũ phàng của thời đại? Ý nghĩa thâm trầm ấy cũng bàng bạc trong quyển Câu chuyện dòng sông.
Đọc Câu chuyện dòng sông, chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời đáng sống và chứa đựng muôn ngàn hương sắc tuyệt vời, mà chúng ta thường bỏ quên và đánh mất giữa đời sống thường nhật. Câu chuyện dòng sông là câu chuyện của mỗi người trong chúng ta: đó cũng là hình ảnh muôn thuở của trần gian và của mộng đời bất tận.
"Câu Chuyện Dòng Sông "của Hermann Hesse là chuyện về chàng Tất Đạt  người đi tìm phương cách cởi bỏ nỗi khổ trần gian hướng tới một thế giới tâm linh giải thoát. Ban đầu chàng tu khổ hạnh, rồi sau bỏ theo đức Phật nghe thuyết pháp. Rồi vẫn không thỏa lòng, giống như các thiền giả trải nghiệm một công án, chàng dấn thân vào đời thực, thử sống như một con buôn kinh qua chuyện kinh doanh buôn bán, rồi lại hưởng thụ thú vui nhục thể với một người đẹp. Tâm linh, trí tuệ, nhục cảm, đó là những mặt khác nhau của thế giới mà Tất Đạt trải nghiệm trước khi tìm ra con đường thật mà mình phải đi.
Tất Đạt khởi từ những thắc mắc về cha mình,  tu sĩ Bà la môn:
“Ông sống một đời sống tốt đẹp, lời nói thì khôn ngoan, tư tưởng thì thanh cao, tế nhị -- nhưng cả đến ông, người biết nhiều như thế, ông sống có hạnh phúc chăng? Có được bình an chăng? Ông lại không là người không ngớt tìm kiếm đó sao? Ông lại không liên tục tìm đến nguồn với cơn khát không bao giờ được thoả mãn đó sao?”…
Và:
“Thế thì linh hồn không có ở trong cha hay sao? Nguồn suối không có sẵn trong chính tâm ông sao?”
“Người ta phải tìm thấy nguồn ở ngay trong tự thân mình, phải chiếm hữu nó. Mọi việc làm khác đều là mò mẫm sai lầm.”
Đây đâu phải là ý nghĩ của riêng Tất đạt, nó là ý nghĩ của tất cả chúng ta, cái tuổi của những bất mãn về cuộc đời.
“Chàng nhìn những thương gia buôn bán, các ông hoàng đi săn, những người tang chế khóc người chết, những người kỹ nữ bán thân, các bác sĩ săn sóc bệnh, những tình nhân đang tình tự, những người mẹ đang vỗ về con. Và tất cả không đáng một cái nhìn thoáng qua, tất cả đều lừa dối: hạnh phúc và sắc đẹp đều là ảo ảnh của giác quan -- tất cả đều đưa về huỷ diệt. Thế gian đượm vị đắng cay. Cuộc đời là nỗi đau khổ.”
Tất Đạt chỉ có một mục đích duy nhất là trở thành trầm tĩnh. Không khao khát, không ham muốn, không mộng mị, không vui và không buồn. Để cho cái ngã tiêu diệt – không còn ngã nữa, chứng nghiệm được sự bình an của một tâm hồn tịch mịch, chứng nghiệm tâm linh thuần tuý”.
Chàng sống khổ hạnh, khắc kỷ như rất nhiều thanh niên đã thử trải nghiệm, dưới một hình thức nào đó…
“Chàng phiêu du qua các đoạn đường diệt ngã bằng khổ đau, qua sự đau khổ tự nguyện và chiến thắng khổ đau, qua đói khát và mệt nhọc. Chàng phiêu lưu qua những con đường diệt ngã bằng trầm tư, bằng gạn lọc khỏi tư tưởng sạch hết mọi hình ảnh. Chàng đã học trải qua những con đường này và những con đường khác. Chàng diệt ngã được một nghìn lần và có những ngày chàng đã sống trong phi ngã.”
“Những con đường đưa chàng ra khỏi ngã, cuối cùng chúng luôn luôn đưa chàng trở lại ngã. Mặc dầu Tất Đạt rời bỏ ngã một ngàn lần, sống bằng phi ngã trong con vật hay đá, đất, sự trở lại vẫn không thể tránh”.
Chàng chứng nghiệm về tu khổ hạnh, như nhiều chàng tuổi trẻ trong chúng ta đã chứng nghiệm, bằng cách này hay cách khác.
“Thiền quán là gì? Bỏ quên tự thân là gì? Nhịn đói là gì? Điều hoà hơi thở là gì? Đó là sự vượt ra ngoài Tự ngã, đó là sự vượt ra ngoài dày vò của Tự ngã trong nhất thời, những viên thuốc tạm bợ chống lại đau khổ và điên đảo cuộc đời: người đánh xe bò cũng dùng lối thoát đó, phương thuốc nhất thời đó khi ông ta uống ít chén rượu nếp trong quán; ông ta không còn cảm thấy có mình nữa, không còn cảm thấy khổ đau của cuộc đời, và như thế, ông chứng nghiệm sự thoát ly trong chốc lát. Gục trên chén rượu nếp, ông ta biết được cái mà Tất Đạt và Thiện Hữu tìm thấy khi chúng ta thoát khỏi tự thân bằng những tập luyện dài và sống trong vô ngã.”
Rồi chàng gặp đức Phật, thấy ở người vị thày thánh thiện mà mình tìm kiếm, nhưng cũng đồng thời thấy rằng phải tự mình tìm ra con đường cho chính mình. Không theo đức phật như bạn chàng là Thiện Hữu, chàng quyết định từ giã ra đi…
Chàng gia nhập cuộc đời trần thế.
Chương “Giữa Xã Hội” đầy những tư tưởng minh triết một cách lạ lùng về cuộc sống của loài người. Tất Đạt tìm hiểu và sống giữa trần thế với phong cách ung dung như một sa môn giữa chúng sinh.
Nhưng rồi chàng bắt đầu chán ghét cuôc sống đó, nó đã biến đổi con người chàng thanh tầm thường dung tục, và chàng cảm nghiệm được điều đó. Một lần nữa chàng muốn thoát ra…
Chàng sẽ tiếp tục tìm kiếm chính từ tâm tưởng mình qua một đối tác là dòng sông. Nói chuyện với dòng sông cũng là nói chuyện với chính mình.
Tất Đạt rồi cũng tìm được điều mình đã tìm
Tất Đạt về với dòng sông.
Chỉ còn người đọc là lan man phương trời miên viển
Đoạn cuối “Câu chuyện của Dòng Sông” Hesse viết khá dài, đào sâu vào tâm tưởng Tất Đạt, ông khiến người đọc tưởng như cứ nghiền ngẫm Câu chuyện của Tất Đạt với Dòng sông là có thể tìm ra Con Đường, và đọc giả có thể cứ theo đó mà đi. Quên rằng mỗi người phải tự tìm lấy dòng sông của mình, con đường của mình.
Tuyệt kỹ của Tất Đạt  là “nhịn đói” và qua tuyệt kỹ đó ta càng thấy rằng chàng đúng là một “kỳ nhân”.
Nói rộng hơn nữa, con người ta mà thoát được cái say mê tiền bạc vật chất thì là tiến thêm một bước vào sự giải thoát.
Nhân vật của Hesse cho ta thấy rằng cuộc sống vật chất là hoàn toàn không đủ, không thể là cứu cánh của cuộc đời . Mục đích của cuộc đời phải tìm ở những giá trị tinh thần. Và họ vật vã đi tìm…
Ai coi “Câu chuyện của Dòng sông” là Đạo, là Con Đường Giải Thoát đều là lầm tưởng cả.
Mà ai coi Kinh Phật là Đạo, là Con Đường Giải Thoát cũng là lầm nốt vậy .
Phật đã nói: “Tất cả kinh sách đều là ngón tay chỉ mặt trăng". Sở dĩ có luận điểm ấy bởi tất cả các tông phái đều đắm chìm trong việc luận bàn kinh sách siêu hình viễn vông mà xa lìa tâm điểm là kinh nghiệm giải thoát của đức Phật.
Kinh nghiệm ấy là quan trọng nhất và tất cả những kinh sách chỉ là ngón tay để chỉ vào những kinh nghiệm ấy. Phản ứng của thiền tông là chặt bỏ ngón tay ấy mà đi thẳng vào tinh tuý của sự Giác- Ngộ.
Đọc "Câu Chuyện Dòng Sông" là lên đường đi đến đời sống tâm linh huyền bí nhất của cả một đời người. "Câu Chuyện Dòng Sông" nói lên niềm thao thức triền miên của một thanh niên trên đường đi tìm ý nghĩa đời sống. " Câu Chuyện Dòng Sông" của Hess đáng là quyển THÁNH KINH của thanh niên giửa cơn khủng hoảng phủ phàng của thời đại.
TuanPolo Vo

NHỮNG NGƯỜI THẦY DẠY SỬ.

Năm 1967 tôi bắt đầu vào học lớp nhất (lớp 5 bây giờ) tại trường tư thục Đắc Lộ (Tân Bình). Vẫn nhớ rất rõ đức cha Vũ Khánh Tường là hiệu trưởng, thầy phó là linh mục Nguyễn Hiến Thành. Học ở đây cho đến cuối năm 1972 thì chuyển sang trường tư thục Nguyễn Duy Khang (Thị Nghè) mấy tháng rồi sang trường Võ Trường Toản (Quận 1) học cho đến ngày 30/4/1975.

Mấy tháng sau (khoảng tháng 9/1975) tôi và mấy người cùng lớp còn ở lại Việt Nam được gọi về Sài Gòn dự thi khóa tốt nghiệp trung học đầu tiên của nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hội đồng thi trường Petrus Ký (Lê Hồng Phong bây giờ). Bằng cấp tốt nghiệp trung học lúc ấy do ông Nguyễn văn Kiết hàm bộ trưởng ký, sau này không nghe nói tới tên ông ấy nữa.

Bảy năm 1967- 1975 tôi học hành lam nham lắm, trong khi các anh chị học chung lớp thì thường quan tâm tới mấy môn toán- lý- hóa để chuẩn bị thi tú tài cho tốt theo chương trình ban B, riêng tôi cảm thấy ít quan tâm thích thú mấy môn học đó. Có nguyên do làm tôi dốt toán- lý- hóa, chắc vì các môn đó bản chất đã khô khan với nhiều công thức rối rắm khó nhớ, mà các thầy các cô giảng bài lại ê a gây bệnh buồn ngủ cho học trò.

Số phận học dốt toán- lý- hóa lại gắn bó tôi với các thầy dạy môn lịch sử. Môn lịch sử cấp phổ thông trước năm 1975 dạy chung với môn địa lý, học trò nào tâm hồn thích lãng du mà chịu học chịu đọc các sách vở sử địa viết trước năm 1975 khi về già uống cà phê hay uống bia thường trở thành các diễn giả rất “độc chiêu”. Còn nếu chỉ được đọc các sách vở lịch sử hay địa lý thời bây giờ thì khó mà biết được các chi tiết “chẳng ra làm sao” của lịch sử nước nhà để mà kháo chuyện.

Chẳng ra làm sao… là bản chất thực tế oái oăm của mọi sự việc trên đời và của lịch sử. Chứ nếu cái gì đó đã ra làm sao, đã có kết quả vuông tròn, đã viên mãn, đã huy hoàng… thì thực ra không đáng để nói nhiều nói mãi. Giống như ta cứ đưa ngón tay lên trời để khoe chiếc nhẫn kim cương mắc tiền mới mua được, thì có ngày viên kim cương trên chiếc nhẫn rớt mất mẹ hồi nào ta chẳng hay chẳng biết.

Năm 1968 tôi vào lớp đệ thất (lớp 6) thì bắt đầu được học sử với thầy Trần Ngọc Liên, một thầy tu xuất khi còn dạy học ngoài Bắc có biệt danh là “Liên đen”. Da của thầy đen kịt, người ốm còm đen thui từ đầu tới chân. Năm mươi năm sau khi nhớ về thầy, tôi chỉ còn nhớ rõ cái miệng. Chỉ riêng cái miệng là không đen, môi thầy đỏ chót lại ăn nói hết sức duyên dáng trẻ trung dù năm ấy thầy đã quá 40 tuổi rồi. Lớp đệ thất (lớp 6) bắt đầu học sử từ thời vua Hùng Vương dựng nước cho tới Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên Mông, nhưng thầy Liên chỉ thích kể chuyện hấp dẫn thời vua Lê chúa Trịnh.

Học với thầy Liên sướng nhất là không phải chép bài cũng không phải trả bài, mỗi lần vào lớp thầy ghi lên bảng đen ông vua này làm vua từ năm nào tới năm nào, ghi được khoảng năm hay mười đời vua thì bỏ mặc đó… và bắt đầu kể chuyện Trịnh Nguyễn đánh đấm ra làm sao, Quang Trung nổi dậy tài tình như thế nào, Nguyễn Lữ chơi đá gà quên chuyện nước non… Nhưng hay và hấp dẫn nhất là vì sao mà các người trí thức tiểu tư sản đã bỏ Việt Minh “dinh tê” về thành rồi sau đó lên tàu Mỹ di cư vào Sài Gòn.

Thầy Liên giảng: Từ “dinh tê” ngoài Bắc trước năm 1954 được sáng tạo và xử dụng như một động từ. Chữ “dzinter” có cách chia (conjugaison) các thời và các mốt giống như chúng ta chia động từ “aimer” vậy. Hồi nhỏ bán tin bán nghi, sau này được đọc các bài viết của ông bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, tôi mới biết thầy Liên nói thật chớ không đùa. Chương trình dạy học phổ thông hồi trước mang tính hướng dẫn, giáo viên có thể giảng cương, giáo trình thì không bắt buộc… có phải vì không được học “tủ” như vậy nên hồi đó rất ít người thi đậu tú tài? Có phải vì bắt chước theo cách đặt động từ mới theo kiểu Pháp là “dzinter” mà sau này có động từ “to quơ” theo tiếng Anh?

Năm 1969 thì miền Nam bắt đầu đổi tên các bậc học giống như bây giờ. Tiểu học có các lớp 1, 2, 3, 4, 5 (thay cho lớp 5, 4, 3, nhì, nhất), trung học đệ nhất cấp có các lớp 6, 7, 8, 9 (thay cho đệ thất, đệ lục, đệ ngũ và đệ tứ), trung học đệ nhị cấp có các lớp 10, 11, 12 (thay cho đệ tam, đệ nhị và đệ nhất). Bỏ kỳ thi tiểu học khá sớm (vào khoảng năm 1955- 1956) để chuyển thành kỳ thi vào lớp đệ thất trường công lập, học sinh nào không vào được lớp đệ thất hay lớp 6 trường công lập được thì ra ngoài ghi tên vào học ở các trường tư thục. Từ thời ông Ngô Đình Diệm, bằng tiểu học (primaire) không còn được sử dụng để xin việc như thời Pháp nữa.

Năm 1963 (nếu tôi không lầm) thì chính quyền Sài Gòn bỏ kỳ thi trung học đệ nhất cấp (diplôme). Năm 1972 thì bỏ kỳ thi tú tài 1 (học hết lớp 11 thì thi tú tài 1- baccalauréat 1) nên sau năm 1972 đi học suốt 12 năm mới phải thi cuối cấp một lần gọi là thi tú tài toàn phần hay tú tài 2 (baccalauréat 2).

Có tú tài mới học tiếp lên đại học được, muốn vào các đại học phải qua cuộc thi tuyển đầu vào hết sức gắt gao mà tỉ lệ trúng tuyển chỉ vài phần trăm. Chỉ có các trường sau là cho ghi danh tự do vào năm thứ nhất hay năm dự bị: Văn khoa, Khoa học, Luật khoa… Tuy nhiên dù số lượng sinh viên ghi danh vào năm đầu các trường này rất đông nhưng lên năm thứ hai thì còn rất ít vì thi cử bậc đại học hồi đó khá khó khăn.

Tính cho đến năm 1974, tỉ lệ thi đậu các kỳ thi tú tài ở miền Nam ít khi nào vượt quá năm mươi phần trăm, nên nhiều anh chị cho là “học tài thi phận” vì chưa chắc học giỏi sẽ thi đậu được. Thi đậu tú tài mới được học sĩ quan quân đội, mới lên làm “xếp” được, nên hồi đó đất Sài Gòn có mấy câu thơ buồn: Rớt tú tài anh đi trung sĩ, em ở nhà lấy Mỹ nuôi con. Đến ngày thanh bình nước non, anh về anh thấy Mỹ con ở truồng…

Áp lực thi cử tại các lớp cấp thấp trái lại không nhiều nên thầy cô ít khi ép học sinh vào lớp học thuộc học vẹt khổ sở như thời bây giờ. Các môn sử địa và văn được phép dạy và học khá thoải mái, không buộc thầy và trò phải gò bó theo sát một giáo án gắt gao.

Nên khi tôi lên lớp 7 việc dạy sử của thầy Liên còn hấp dẫn hơn nữa, chương trình sử năm đó là từ thời Trần cho tới hết thời Lê… nhưng thầy chỉ lo kể chuyện Pháp đánh Việt Nam, rồi Việt kháng Pháp. Có nói nguyên nhân tại sao mấy người học trò trí thức như thầy đã bỏ Hà Nội lên Việt Bắc, rồi khi gặp cải cách ruộng đất và mấy cái ba lăng nhăng khác lại bỏ về thành. Cái lạ là thầy Liên và các người như thầy đã chẳng hề trách cứ ai, cũng chẳng tuyên truyền cho học trò căm ghét cộng sản.

Đó là cái rất lạ, cái lạ đó dẫn dắt tôi mấy chục năm sau phải dùng hết quãng thời gian ngắn ngủi còn lại của đời mình đi tìm hiểu cho ra “thái độ thật sự của trí thức Bắc Hà đối với các loại chính quyền”. Mà rồi ngộ ra: Mối tình đầu bao giờ cũng đẹp dù chưa chắc đúng. Sau này vì một hoàn cảnh nào đó phải nói lời chia tay, người biết yêu bao giờ cũng sẽ chẳng hết yêu được, họ chẳng thể nào quên mối tình đầu dù bị bạc bẽo lừa dối ra sao.

(Không biết tôi nghĩ vậy có đúng không?)

Năm lớp 8 và năm lớp 9 tôi được học sử địa với thầy Dương Ngọc Sum người Nam Bộ theo đạo Phật đang mang lon thiếu tá quân đội Sài Gòn. Ông Sum là một trí thức Nam Bộ từng đi lính cho cả hai chế độ Việt Minh và Quốc gia, lúc ấy ông vừa đi dạy học vừa làm phụ tá cho tướng an ninh Đặng văn Quang. Khác với thầy Trần Ngọc Liên tìm tòi tự học sử, thầy Sum là cử nhân sử địa nên cách chỉ dạy, cách diễn đạt khá chuẩn mực dù ông không bao giờ bắt buộc học trò phải học thuộc lòng.

Mười mấy năm sau về lại Sài Gòn làm nghề đại lý hàng hải, tôi vẫn nhớ ơn ông về cách xem bản đồ, cách nhìn hải đồ và cách tính cự li vận tải… mà hồi nhỏ đã từng được ông chỉ dẫn dù rất qua loa trong mấy giờ học sử địa lớp 9. Thầy Sum ưa xưng “qua” theo kiểu miền Nam với học trò: Qua nói cho mấy em nghe nghen, chẳng có chế độ nào xấu, chỉ có con người xấu xa thôi. Thầy Dương Ngọc Sum dù đi lính nhưng lại là một trí thức thiên tả, có màu sắc xã hội khá đậm nét nhưng phảng phất tính cách chính trị dân tộc của nhóm Đệ Tứ như Phan văn Hùm, Trần văn Thạch, Tạ Thu Thâu…

Thầy Sum có sự hiểu biết khá sâu sắc về các nhân vật kháng chiến Nam Bộ thuộc các phe phái chính trị khác nhau và không ngần ngại giảng giải cho học trò lớp 8 lớp 9 nghe hết chuyện ông này bà kia. Hồi đó chúng tôi mới mười ba mười bốn tuổi nhưng chắc là trưởng thành sớm hơn các em cùng tuổi bây giờ nhiều lắm, một phần do chiến tranh khốc liệt mà một phần cũng do các thầy cô ngày đó khá tôn trọng học trò nhỏ tuổi, họ coi học trò là những đối tượng cần phải trao đổi kiến thức đời thường hơn là phải bị giáo dục nhồi sọ. Hồi đó giáo dục chủ yếu là giáo dục, chỉ có thầy cô nào bị giựt dây mới cố ý đem chính trị vào lớp học, mà số đó thì rất ít. Những người ưa đem tuyên truyền vào lớp học dù theo chiều hướng nào về sau rất ít được học trò coi trọng.

Hiệu trưởng trường tư thục Đắc Lộ là một tiến sĩ sử học tốt nghiệp năm 1953 tại Pháp với luận án “Giáo hội sơ khai tại Việt Nam”. Trường tư thục Đắc Lộ và tu hội Đắc Lộ do linh mục Vũ Khánh Tường sáng lập vào năm 1961. Cha Tường sinh năm 1925 tại làng Phú Nhai, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Năm 1949, ông Tường được giáo hội cử sang Pháp du học tại phân khoa sử học của trường Institut Catholique de Paris và tốt nghiệp tiến sĩ sử học vào năm 1953.

Ông về nước năm 1956 và được cử làm phụ tá cho đức giám mục Phạm Ngọc Chi. (Hai năm ngắn ngủi làm phụ tá cho ông Chi chắc có lẽ là nguyên do gây ra những tai ương cho cuộc đời hiền hòa của ông Tường sau năm 1975. Trước năm 1954, ông Phạm Ngọc Chi là người chỉ huy lực lượng tự vệ Công giáo nổi tiếng chống Cộng tại Bắc Việt. Việc cha Tường làm phụ tá cho ông Chi một thời gian ngắn, dù tại Sài Gòn sau năm 1954, có lẽ đã gây ra cho chính quyền mới sau năm 1975 những hiểu lầm rất tai hại về ông Tường.)

Năm 1958- 1961 linh mục Vũ Khánh Tường không còn làm phụ tá cho cha Phạm Ngọc Chi. Ông được cử làm hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Bá Tòng (nay là trường Bùi Thị Xuân tại quận 1). Năm 1961 ông Tường về Tân Bình lập tu hội và trường Đắc Lộ với các phương châm truyền giáo, văn hóa, giáo dục. Đắc Lộ phát triển nhanh chóng, các lớp học ban đầu dạy trong những căn nhà nhỏ tạm bợ, thời gian sau đã thành một trung tâm giáo dục trung tiểu học từ lớp 1 đến lớp 12 với gần ba ngàn học sinh, với một ký túc xá 500 giường ngủ. Đặc biệt sau năm 1971, một phân khoa Nhân Văn của trường Đại Học Minh Đức đã được thành lập ở đây.

Linh mục Vũ Khánh Tường đi học tập cải tạo năm 1978 và mất năm 1980. Nguyên nhân ông bị chính quyền bắt đi học tập không phải là chính trị mà là do tội “tuyên truyền mê tín dị đoan”. Rất đáng tiếc khi những tài liệu sử học về giáo hội Công giáo Việt Nam và lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỷ 17 đến thế kỷ 20 mà ông đã dày công biên soạn do không ai dám gìn giữ nên thất lạc gần hết.

Người dạy sử trong hai năm học cuối bậc phổ thông cho tôi là thầy Nguyễn Khắc Ngữ, một nhà sử học chuyên nghiệp gốc Phật giáo Bắc di cư.

Đó chắc là may mắn cuối cùng trong cuộc đời đi học... dốt. Thầy Ngữ trước năm 1975 viết khá nhiều sách giáo khoa sử địa, các công trình nghiên cứu sử học thời cận đại của ông được Sài Gòn đánh giá là khá công minh và khoa học, không mang định kiến chính trị chính em nhiều. Tác phẩm cuối cùng ông viết trước khi lên máy bay di tản là “Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa”. Đây là một sử liệu ngắn gọn nhưng có giá trị lịch sử cao, nó trình bày rõ về nguyên nhân cũng như các tiến triển logic về sự sụp đổ không thể tránh khỏi của Sài Gòn trong năm 1975. Các nhận xét về các chính trị gia Sài Gòn trong cơn bão lớn khá sắc nét.

Sách của thầy Ngữ viết khá nhiều trước năm 1975 nhưng sau năm 1975 những cuốn sách này do không được phép lưu hành gìn giữ nên cũng nhanh chóng biến mất tiêu. Khác với thầy Trần Ngọc Liên và thầy Dương Ngọc Sum ưa kể chuyện cho học trò nghe, giờ lên lớp của thầy Ngữ thực sự là cuộc trao đổi ý kiến giữa thầy và trò về những gì mà ông đã viết trong sách. Chắc ông muốn xem sách mình viết vậy có đúng không, sách mình viết vậy có lôi cuốn không, học trò có tin tưởng những gì mình viết hay không? Thầy Ngữ nói chuyện không lưu loát lắm nhưng viết thì rất sâu sắc, khi trao đổi với học trò khá chậm rãi chân tình. Nói chuyện với ông, học trò cảm thấy mình là người lớn… dù lông cánh chưa có đủ.

Thầy Ngữ tiếp tục nghiên cứu, dạy học và viết lách ở nước ngoài nhưng nay thầy cũng đã biến mất vào hư không rồi.

Sau năm 1975 tôi không còn đi học, và từ đó tới cuối cuộc đời dài không được học sử với những vị thầy dạy sử đáng kính nữa. Kiến thức về sử học của tôi cho tới bây giờ cũng lam nham như toán- lý- hóa hồi còn học phổ thông. Mấy năm nay dù rất tha thiết viết “xử” bắt chước cho giống các thầy dạy ngày xưa nhưng tôi biết rõ mình viết “chẳng ra làm sao”. Nhưng thôi cứ viết, vì không viết thì chẳng biết phải làm gì.

Vẫn viết dù biết: Viết chẳng biết ra làm sao!

MOMENTARY
17/12/2017.

Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

Chuyện cô lái đò

Cười là liều thuốc bổ . . .
Chuyện cô lái đò
Cô lái đò đưa khách qua sông. Đò cập bến cô lái thu tiền từng người.
Sau hết đến nhà sư.  Cô lái đò đòi tiền gấp đôi.
Nhà Sư ngạc nhiên hỏi vì sao?
Cô lái mỉm cười:
- Vì Thầy nhìn em…
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
                                       o0o
Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền gấp ba.
Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái cười bảo:
-  Lần nầy Thầy nhìn em dưới nước.
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
                                       o0o
Lần khác nhà sư lại qua sông.
Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định.
Đò cập bến cô lái đò thu tiền gấp năm lần.
Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái đáp:
- Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến em.
Nhà sư trả tiền và lên bờ.
                                       o0o
Một hôm nhà sư lại qua sông.
Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò…
Đò cập bến, nhà sư cười hỏi lần nầy phải trả bao nhiêu?
Cô lái đáp:
- Em xin đưa Thầy qua sông, không thu tiền.
Thiền sư hỏi:
- Vì sao vậy?
Cô lái cười đáp:
- Thầy nhìn em, nghĩ đến tiền, mà không còn nghĩ tới em nữa…

Do vậy em xin đưa Thầy qua sông mà thôi...
                                       o0o
Vài năm sau đó có một Việt kiều trở về thăm quê hương.
Cô lái đò đưa khách qua sông. Thuyền ra giữa dòng, khách nhìn cô lái đăm đăm.
Cô lái cũng chợt nhận ra khách ... là vị thiền sư năm xưa, bây giờ đã đổi khác ...
Mái tóc để dài, bộ quần áo thời trang thay cho bộ nâu sòng ngày cũ.
Đò cập bến cô lái thu tiền từng người. Khách là người cuối cùng rời đò.
Cô lái đòi tiền gấp mười. Khách hỏi vì sao ?
Cô lái trả lời tỉnh queo:
- Đó là giá Dziệt kìu !! 

Cười là liều thuốc bổ . . .🤣😁😀😄😅😋


Thần Đồng

Cười là liều thuốc bổ (2)

������Thần Đồng
(Trích Con Ong Việt)

  Cu Tèo năm nay 6 tuổi, học lớp ba trường tiểu học . Nhưng được tiếng thông  minh, như thần đồng tí hon: Mấy tuần lễ vừa qua: Tèo vào lớp chỉ ngủ, không chịu học hành gì cả Cô giáo gạn hỏi, Tèo nói:
- Thưa cô, học chán lắm rồi. Cái gì Tèo cũng biết cả, học làm gì nữa. Chương trình học thấp lè tè. 'Cô xin cho Tèo lên học Trung học đi.'
  Cô giáo dẫn Tèo lên văn phòng Ông  Hiệu trưởng, trình bày đầu đuôi câu chuyện.
Ông  Hiệu Trưởng bán tín bán nghi, bàn với Cô giáo là, Ông  và cô sẽ thay nhau trắc nghiệm, cả về kiến thức tổng quát, toán học và khoa học xem Tèo có đúng là thần đồng để được lên Trung học, học trước tuổi không . Ông  Hiệu Trưởng lần lượt hỏi:
25 lẩn 25 là bao nhiêu?
Tèo chằng cần tính toán trả lời ngay:
- Dạ, 625
- Công  thức tính diện tích vòng tròn?
- Dạ là bình phương bán kính nhân Pi
- Nước bốc hơi khi nào ?
- Dạ nước bốc hơi ở độ sôi 100 độ C
Sau gần 1 tiếng trắc nghiệm Ông  Hiệu Trưởng rất hài lòng về khả năng toán và trình độ khoa học của Tèo. Đến phần Cô giáo khảo hạch về kiến thức tổng quát
  Cô giáo:
- Con gì càng lớn càng nhỏ?
Ông  Hiệu Trưởng hơi chột dạ, nhưng Tèo đáp ngay:
- Thưa cô, con cua có càng lớn, càng nhỏ
- Cô giáo:
  -Trong quần Tèo có cái gì mà cô không  có?
Ông Hiệu Trưởng giật nẩy người, Tèo từ tốn, điềm tĩnh trả lời:
- Trong quần Tèo có 2 túi quần, .quần cô không  có.
- Cô giáo:
-Ở nơi đâu lông đàn bà quăn nhiều nhất? .
Ông  Hiệu Trưởng tái mặt nhưng Tèo trả lời đễ dàng:
- Dạ ở Phi châu ...
- Cái gì cô có ở giữa 2 chân của cô?
Ông  Hiệu Trưởng sợ đến há hốc mồm.
Tèo nói:
- Dạ là cái đầu gối. .  
Cô giáo:
- Cái gì trong người của cô lúc nào cũng ẩm ướt?
Ông  Hiệu Trưởng sợ đến gần chết điếng người, ra dấu định cho ngừng ngay cuộc sát hạch, nhưng Tèo đã đáp:
- Dạ là cái lưỡi. ..
- Cô giáo:
- Cái gì của cô nhỏ bé và rộng lớn ra khi cô lập gia đình?
Ông  Hiệu Trưởng ra dấu không cho Tèo trả lời nhưng Tèo vẫn đáp tỉnh bơ:
- Dạ là cái giường ngủ của cô.
Cô giáo:
- Cái gì mềm mềm, nhưng khi vào tay cô một hồi thi cứng ra
Ông  Hiệu Trưởng không dám nhìn cô giáo. '"
- Tèo: Dạ thuốc sơn móng tay.
Cô giáo:
- Cái gì dài dài như trái chuối, cô cầm một lúc nó chảy nước ra? 
Ông -hiệu trưởng đứng phắt dậy, định nạt cô giáo bắt.ngưng.
Tèo nói:
- Dạ, cây cà lem. ..
Ông Hiệu Trưởng toát mồ hôi hột, la lớn:
- Thôi, cô giáo không  được hỏi nữa, đủ rồi. Gửi Tèo lên trừơng Đại Học ngay, không  cần qua Trung. học nữa . Nãy giờ Tèo .nó.đáp đúng cả, còn tôi, nếu trả lời, tôi không  đúng đến được một câu.!. .. . .... .

Ong Vú siêu tầm

Cười là liều thuốc bổ

. . .(vitamin C3)��
Bất Quân Tử Đại Nhân - Khuyết Danh

Vợ đánh mà không khóc là: Bất khuất
Vợ Chửi mà làm thinh là: Bất bạo động
Tài Sản của Vợ là: Bất động sản..
Em Gái của Vợ là: Bất khả xâm phạm...
Ý muốn của vợ là : Bất di bất dịch..
Quần Áo vợ mặc thì : Bất luận..
Được vợ khen là: Bất ngờ...
Người khác khen vợ mình là : Bất ổn..
Lấy vợ xấu là vì mình : Bất  tài..
Cưới được vợ đẹp là đời mình: Bất hạnh...
Bị vợ bỏ là vì mình: Bất lực
Ly dị Vợ là chuyện Bất lợi
Vợ không cho lại gần là Bất bình thường
Vợ không cho ngủ chung thì Bất mãn
Gia đạo lộn xộn thì Án Binh Bất động
Vợ Chồng mà Đánh Nhau thì Bất phân thắng bại..
Hết lòng nhịn vợ thì Bất chiến tự nhiên thành...

Vì thế cho nên: Bậc Đại Nhan
Chưa lấy được vợ thì đêm ngủ : Bất an...
Quen được một cô thì trở nên Bất nhất...
Bạn bè đến cứ hỏi thăm thì thấy Bất tiện..
Chưa cầm được tay, nắm được chân là Bất trí
Nắm được chân, cầm được tay rồi, mà không cưới là Bất nhân.
Cưới xong mà không thờ Bà cho trọn vẹn thì Bất nghĩa..

Già lấy được vợ trẻ là... Bất chấp  thiên hạ...dị nghị
Trẻ lấy được vợ già thì Bất cần  đời

Đạo thờ Bà: Vợ gọi mà không dạ là Bất kính.
Lãnh lương không đưa hết cho Vợ là Bất hiếu..
Ði ăn nhậu về, Vợ hỏi mà nói là đi họp là: Bất tín
Cãi lời Vợ là... Bất Tuân thượng lệnh
Vợ đánh không dậy được là Bất tỉnh ..nhân sự
Niềm tin thờ Vợ là: Bất khả tư nghị...
Tất cả những điều này là Chân Lý Bất biến

Tạm Ngưng Bất Tử,
Vẫn Còn Nhiều Điều Quân Tử Bất Tri Kỳ Sự

Khuyết Danh
��

Thứ Tư, 15 tháng 11, 2017

Chốn Cũ Đường Xưa

Phiếm: Chốn Cũ Đường Xưa.- Chàng Hiu

Hồi trước, ở Sài gòn, cánh đây lâu lắm, tròm trèm…nửa thế kỷ lận nhen… Tất cả cái loại xe hơi, hai đèn trước, đều phải có “mắt mèo” nghĩa là phải sơn màu vàng lên 1/3 bên trên mặt kiếng của đèn trước, ý là… hỏng cho bác tài pha đèn ban đêm, làm chói mắt người hay xe chạy ngược chiều!
Bởi vậy, bác tài có muốn… chơi ác pha đèn, cũng… bó tay!!!
Khúc đường gần bịnh viện đều có bảng “cấm nhận kèn” để bịnh nhân khỏi giựt mình!
Xe đậu trong đường Sàigon đều phải tuân theo bảng đậu “ngày chẵn lẻ”…

Tất cả xe tắc-xi đều sơn trùng một màu xanh hoặc vàng xanh, ý là để “khách bộ hành” biết nó từ đàng xa để… quơ tay đón và cũng. có ý là nếu, hỏng… phải xe tắc xi, mà là xe du lịch tư nhân lại đi ”dù” rước khách… kiếm chúc cháo là biết liền, cũng dĩ nhiên, xe nào “nhảy dù” như vậy, bị bắt là bị phạt, lớ quớ còn bị tịch thu bằng lái!

Xe tắc xi phải có đèn hộp “bắt chết luôn” trên mui xe, về đêm, hộp đó có đèn cháy sáng để khách biết mà… dơ tay đón… để cho khỏi lộn với xe du lịch!
Xe buýt cũng phải sơn một màu đặc trưng riêng để dể phân biệt với xe đò…

Ví dụ Xe Buýt Vàng thì… sơn màu vàng đặc trưng… khác thiên hạ…
Bến xe nầy ở gần Bà Quẹo… mà bà con gọi là Bến-Tô-Bít-Vàng…
Kế bến xe buýt vàng nầy có hãng cơm xấy Hồng Hoa (?) làm cơm xấy cho lính…
Xe cộ phải đàng hoàng, cái nào ra cái đó, lộn xộn… hỏng nên thuốc!
Bắt đầu 18 – 20 tuổi… mới cho thanh niên lái xế hộp 4 bánh du lịch… để lấy le, sau đó vài ba năm, bác tài… trẻ mới lên được 1 “hạng”, rồi cày vô lăng… vài năm nửa, mới cho… mó tới xe tải, rồi “chạy xe” thêm vài niên, mới “đủ ngày” để lấy dấu E để lái xe đò, nghĩa là khi bác tài lái… mấy chục tánh mạng hành khách, thì bác tài… vô tuổi trung niền rồi, nên… hết máu thanh niên, háo thắng, ưa nóng gà… chạy ẩu!!!
Chớ không có cái chuyện “giao trứng cho ác” được!

Ở ngã tư đèn đỏ, có vạch sơn trắng, tất cả xe cộ đều ngừng sau vạch đó, xe nào cáng mức sơn, mà nhè ông đạp xích lô thấy được… ổng chửi cho tắt bếp, quê lắm nhen!!!
Nhà bán thuốc tây, thì bảng hiệu đề Nhà Thuốc Tây hoặc Nhà Thuốc Gác (đó là danh từ chung) chớ khộng ai lấy Tên Riêng (danh từ riêng) để đề bảng hiệu bán thuốc tây!
Hai bảng hiệu nầy luôn luôn là bảng màu xanh đậm và chữ trắng, nó còn có hộp đèn chữ thập xanh gắn thêm, để đêm hôm, người mua thuốc… đứng ở xa, cũng thấy!

Tiệm nào bán thuốc bắc thì có chữ “đường” ở sau, Ví dụ: Vĩnh Sanh Đường, Nhị Thiên Đường, Thiên Hòa Đường…
Còn chùa thì có chữ “tự”… dính ở sau, ví dụ: Huỳnh Kim Tự, Thới Hòa Tự, Long Vân Tự, Linh Sơn Cổ Tự…
Tiệm bán vàng thì bảng hiệu chỉ có 2 chữ, chũ  đầu luôn luôn là chữ “kim”, ví dụ: Tiệm vàng…Kim Hưng, Kim Liên, Kim Sen, Kim Hoàng, Kim Phát…

Địa Danh ít khi dùng chữ Thái (kỵ húy vua Thành Thái ?) mà dùng chữ Thới: Ví dụ: Thới Bình (Cà Mau), núi Châu Thới ( Biên Hòa), Bình Thới (quận 11), Tân Thới Hiệp (chỗ tập lính QT) Thới Tam Thôn, Thới Hòa (Vinh Lộc) Thới Nhứt, Thới Nhì, Thới Tam, Thới Tứ (Hóc Môn), Xuân Thới Sơn (chỗ đương trạc, giỏ tre… )

Nhà dân cất dọc đường lớn, xa lộ, người ta luôn luôn tự động cất nhà thụt lùi vô trong, ở xa lộ, cách Xa Lộ ít nhứt là 50 mét! Lý do là để cho an toàn chuyện xe cộ, thứ 2 nếu có mở rộng đường xá thì khỏi phải dời nhà…
Nhà mà dời đi, dời lại là điều ông bà xưa kiêng kỵ, nên, hỏng ai ham lú mặt ra đường!
Dọc đường cái trống trơn, hỏng ai… dám gan, tới chỗ đó… tự nhiên cất nhà…
Nếu gan cùng mình, cất nhà đại… thì cứ cất, đợi cất xong, bên Điền Địa hỏi Bằng Khoán đất, hỏng có, thì “coi như”… gia chủ xách tụng đi ăn mày… ở tòa bố!
Còn những tên cất nhà, mà lấn từng tất đất, bà con nói nhẹ rằng “thằng đó hết xài”!
Thằng nào “hết xài”… thì nó, chỉ còn nước… đội quần mà đi, nhục lắm!!!…
Ở Sàigon, cái vụ học hành, có ba thứ trường để học:
Trường Công Lập, Trường Tư Thục và Trường Hàm Thụ

TRƯỜNG HÀM THỤ là trường… mà… hỏng ai tới trường!
Bất kể ai, vì hoàn cảnh gì đó không tới trường học trực tiếp được, thì cũng có cách học để tiến thân, đó là “học trường hàm thụ”. Nghĩa là, cứ… đi làm sở, làm sùng tà tà hay làm việc nhà nấu cơm hoặc cày sâu cuốc bẩm đồng sâu nước mặn…

Nếu muốn tiến thủ trong cuộc đời… thì ghi danh học Trường Hàm Thụ, trường sẽ gởi Bưu Điện bài học, bài làm tới nhà và làm bài xong, gởi bưu điện tới cho trường chấm bài, rồi trường gởi bài tiếp…
Cứ thế… cứ thế…
Chỉ tới ngày thi, thì thí sinh phải đi thi mà thôi…
Bởi vậy, anh em nào có tinh thần cầu tiến, cứ học, nếu thi đậu thì đáng nể lắm!!!

TRƯỜNG TƯ THỤC thì học sinh phải “đóng tiền trường” hàng tháng và bằng Tú Tài cũng giống y như học sinh Trường Công Lập…

TRƯỜNG CÔNG LẬP là… trường công, học sinh không đóng tiền trường suốt 7 năm Trung Học…
Đặc biệt, trường Công Lập nam nữ… lại cho học riêng, như:

TRƯỜNG CÔNG LẬP Nữ Trung Học : Lê Văn Duyệt, Gia Long, Trưng Vương… vv…

TRƯỜNG CÔNG LẬP Nam Trung Học: Hồ Ngọc Cẩn, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Pétrus Ký, Lý Thường Kiệt, Quốc Gia Nghĩa Tử… vv…
Ở trường công nam, Nam Sinh mặc đồng phục Quần xanh áo trắng… bỏ áo vô thùng, trên miệng túi áo, có ghi tên trường hẳn hẹ… nên đố thằng nào… dám hó hé!
Ở trường công nữ, Nữ Sinh đồng phục là mặc áo dài trắng, quần trắng…
Có… thời khắc “mấy nhỏ áo dài trắng”… bắt chước mấy cô ca sỹ Sàigòn, bận áo dài vạt “lửng”… còn tay áo thì kiểu “rặc lăn”… là… tay áo dài nối vô thân áo…
Thiệt… quả là báo đời…một phen!!!

Mấy anh chàng Nam Sinh trường công vì học chung “tòn-là đực rựa”… nên nhiều thằng dòm… quí nàng áo dài… vạt lửng… bước đi với tà áo (cố tình) thước tha yểu điệu, tụi đực rực… áp nhau thấy, tụi nó…rụng rúng bầy bầy!!! Hì hì…
Bởi vậy, mới có chuyện, mấy “tay tổ” trường công nam, cúp cua vô Lăng Ông Sở Thú Tao Đàn… để “trồng cây si” mấy nàng áo trắng, thây kệ chuyện, bị… cồng-sing!!!

Và… thấy tiếp… ở Sàigòn năm xưa…
Cây xăng nào cũng có “vòi bơm bánh xe gắn máy, xe hơi” đứng ở giữa hai trụ xăng…
Đang chạy xe, thấy bánh xe mềm, tấp vô cây xăng, dựng xe trước “cây bơm”, lấy tay “quây” cây kim hơi, về số 5 (5 năm ký hơi)… rồi ung dung ngồi xuống, mở nấp vòi, ịnh đầu bơm hơi vô vòi ruột xe… để cho nó tự bơm, cây kim bơm hơi, quơ quơ nghe cạch cạch cạch, tới khi, nghe kêu cái teng, đủ hơi, là máy bơm tự động ngừng bơm…
Bơm xe như vầy, nghe… nó phẻ cách gì, chớ 2 tay “thụt ống bơm”… mệt lắm!!!
Nhưng… úi chà… cứ bom cây xăng riết, ruột xe Honda tòn – là… nước không hà!

Biết được ruột xe có nước là do vô vá xe tại tiệm sửa xe “Sĩ Solex” kề bên trường Lê văn Duyệt và bên kia đường… có rất nhiều ruộng rau muống xanh um!

Trên đường Phan Đình Phùng Sàigòn 3, kề bên chợ Vườn Chuối có đường xe lửa chạy ngang và bên kia đường rầy, có căn nhà 3 từng, đó là nhà “cho mướn sách” Cảnh Hưng. Cho mướn sách là cho độc giả… mượn sách về nhà đọc, nhưng phải “đóng tiền thế chưn” bằng 1/2 giá tiền sách in ở trang bìa, khi đem trả sách, Cảnh Hưng trừ tiền mướn vô tiền thế chưn, tiền mướn, cứ 1 cuốn 1 đồng 1 ngày… răng rắc!
Mấy nhà bán sách và tác giả có sách xuất bản… hỏng vui với Cảnh Hưng…

Nhà Cảnh Hưng chứa sách để cho mướn… hỏng biết mấy chục ngàn cuốn, vì sách nằm trong kệ… đen nghẹt, bít kín từng trệt và 2 từng lầu…
Ông Cảnh Hưng… tướng tá… hơi nhỏ con nhưng vui tánh, học trò khoái lắm!
Thằng học trò nào mê Kiếm Hiệp, muốn luyện chưởng hay… muốn đột nhập “cái bang vài ba túi”… thì tới đây… tìm bí kíp!!!
Ông Cảnh Hưng… biết tẩy học trò hết ráo nhen, thấy mặt, ổng cười hì hì, liền cho mượn cả tuần mới trả, với 2 đồng một tuần… là cái… giá-ghẽ-ghề…
Bởi vậy, học trò “mê đọc sách” Cảnh Hưng… quá xá cỡ là vậy đó đa!!!
Phụ việc ông Cảnh Hưng là bốn năm đứa nhỏ, chuyện môn, chạy đi lấy sách… theo sự “chỉ chỗ” của ông chủ hay lấy sách độc giả trả, rồi đem sách để “chỗ cũ”…
Ông Cảnh Hưng có trí nhớ… siêu phàm tàn canh gió lốc…
Khi ai tới mướn sách, chỉ cần nói tên sách, là ông Cảnh Hưng, nói liền, thí dụ:
– Bộ Tam Quốc Chí có 3 cuốn, nhưng khách đang mướn cuốn 1 và 2…
– Ủa ? Ông chủ có cả chục bộ lận mà ?
– Thì ờ… người ta mượn hết ráo rồi, giờ còn cuốn 3… Cuốn 1 và 2 mai trả…
–… vậy đi… lấy tui cuốn 3… cũng được!
Ông Cảnh Hưng ra lịnh:
– Tèo, mầy lên từng 2 kệ số 7 ngăn 6 lấy cuốn 3 bộ Tam Quốc Chí cho ông Hai!

Học trò Đệ Lục nghe ông Cảnh Hưng… nhớ từng vị trí cuốn sách nằm ở đâu trong rừng sách từ trên lầu xuống tới đất… thấy mà xám hồn luôn!!!

Ông Cảnh Hưng có quen với nhiều nhà xuất bản, như Yên Sơn (Phú Nhuận) chẳng hạn, khi đang sách in, ông… được ưu tiên “thộp” một mớ… đem về cho mướn trước, khi nào in đủ số, sách… mới phát hành! Bởi vậy, coi sách “nóng hổi” là vậy!
Mỗi loại sách, Cảnh Hưng có ít lắm 15 bộ mới đủ cho mướn…
Đặt biệt, những cuốn sách hồi xưa, xa lắc, xa lơ… xuất bản từ hồi…bà cố hỉ cố lai 8 đời vương ông hoãnh… nhà Cảnh Hưng cũng có!!!

Như cuốn Tôi Kéo Xe của Tam Lang hay cuốn Con Trâu của Trần Tiêu in năm 1940 hoặc cuốn Chồng Con in năm 1941!!!
Biết “rõ” như vậy là do Cô dạy Việt Văn cho “thuyết trình” ở lớp những Tiểu Thuyết xưa, mà sách… xưa ơi là xưa, thì chỉ có ở nhà Cảnh Hưng!!!
Thế là học trò Đệ Lục tức tốc mượn về, để… mần thuyết trình trong lớp…
Sách cho mướn, được bao thêm bìa giấy xi măng, trên đó, viết chi chít ngày mượn…

Ngoài ra, học trò muốn mượn “cuốn nào hây hây”, thì… hỏng hiểu “do đâu”, ông Cảnh Hưng liền nói tuốt luốt một lèo cho nghe, cái nội dung cuốn “sách hây” hoặc là bất kể cuốn nào mà học trò còn… mù mờ, nghe xong, thế là học trò mượn liền!
Ông Cảnh Hưng còn… quảng cáo cuốn sách… thứ dữ… “chỉ tao mới có”…
Sách nầy thuộc loại “cái ban môn phái” mà học trò khi ấy… đang muốn luyện thử!
Đó là cuốn Lục Tàn Ban (quên tên tác giả)

Đây là cuốn sách viết về… cái bang bảy tám túi, coi… hay hết kỵ luôn:
Lục Tàn là 6 nhân vật (tàn tật) gồm: Thằng đui, thằng điếc, thằng mất 2 giò, thằng mất 1 tay, thằng mất 1 chưn, thằng cụt 2 tay
Thằng đui làm… Ban Trưởng Lục Tàn!!! (ối trời… *&%#?><… ) Sáu ông cố tàn nầy… luyện chưởng, luyện gồng, luyện nghe, luyện thấy, luyện chạy… thuộc hàng cao thủ võ lâm… để trả thù cho sư phụ bị sát hại năm xưa… Giới giang hồ cho rằng “môn phái” đó bị tiêu diệt, khi 6 đệ tử sau cùng bị thương nặng trong rừng, không ai cứu chữa và ai cũng tưởng… chết hết rồi! Mấy thằng học trò Đệ Lục coi say mê Lục Tàn Ban luôn!!! Có thằng còn “luyện thử”… cách dòm xuyên màn đêm của cao thủ Lục Tàn Ban!!! Bởi vậy, thằng nào… non tay ấn, luyện nhản riết, tới độ mang kiếng cận dầy cui, chớ ở đó mà đổ thừa “tại bị”… rồi nói dóc là “tao lo học” tới cận thị!!! Ba-xạo quá nha mấy cha!!!

Trên đường Phan Đình Phùng, sáng sáng có xe lấy rác, có gắn cái chuông kêu leng keng. Cuối hẻm 376 là đình Phú Thạnh, là chỗ con nít ưa tụ tập, thả diều, bắn đạn… Trước nhà số 380 Phan Đình Phùng Sàigòn 3 có “phong tên” nước công cộng… Ở đó có đông người “chuyên gánh nước mướn”,  được bà con các hẻm xung quanh “mướn” gánh nước mỗi sáng sớm, gánh từng đôi nước về nhà… Mấy bà (cô) gánh nước khoái đọc cuốn tiểu thuyết Rặng Trâm Bầu của Lê Xuyên!

Nước phong tên ở đây được chảy từ cái sa-tô-đô cũng nằm ở đường Phan Đình Phùng… và và… nếu ai… hà tiện, thì khi khát nước, cứ lại phong-tên khòm lưng mở vòi uống… chùa… Bà con gọi là “uống nước khum”…

Cùng phe gánh nước mướn ở phong-tên, cũng có mấy người “ở đợ” nhưng được gọi nghe cho… nhẹ hơn là “con sen”, sáng sớm cũng ra gánh nước về nhà cho chủ… Lúc đó và sau đó, Tân Nhạc với điệu Boléro thịnh hành trên khắp nẻo đường và có nhiều bản nhạc “hợp với tâm trạng – hoàn cảnh” nên Ca Sỹ thứ thiệt hát là rung động trái tim, nên được mấy bà chị gánh nước khoái, cứ nhè mấy bản đó hát mãi, tiếng ca “nhảo nhẹt” mà hát… hoài hoài hỏng biết chán, bà con nghe riết phát nhàm…

Dần dà, cộng thêm mấy chị… ma-ri-sến ”làm sở Mỹ”, rồi dân vũ nữ quán Bar, phòng trà… thuộc loại quá “date”… cũng hát những bản điệu Boléro thịnh hành! Ma Ri Sến thất nghiệp cũng về gánh nước và cũng hát “bản tủ” như mấy chị kia… Cứ hát riết, phát ngấy, bà con gọi giọng hát đó là… giọng rên… ma ri sến!!!

Mấy chị… sáng sớm vừa chờ nước vô thùng vừa hát tân nhạc véo von, chỉ có vài bài tủ, mấy chị cứ hát riết nghe… phát mệt… (Đã vậy, nó còn “cộng hưởng” rồi “trùng tên” với… cái vụ con gái rơi của ngài thượng sĩ – tổng thống da đen Bocasa bên châu phi, tên cô là Mary… Cô Mary gái lai đen nầy ở vùng Ngã Năm chuồng chó, ngài tông-tông Bocasa nhờ báo Trắng Đen tìm dùm, thế là cô Mary… trở thành ngọc ngà châu báu… ) Và “miệng thế gian”… đặt cho chết tên cho giọng ca… mới nổi, giọng ma-ri-rến!
Giọng marisến… làm mệt lỗ tai… thính giả! Hát “bản nhạc tủ” miết, làm cho nó… lờn, tới độ, bà con nằm nhà hay đi ngang… nghe… thì biết là tiếng hát của con Sến nào!!! Khi ở nhà bà chủ, tên là Con Sen, sau đó, nàng ra Vũng Tàu làm “ma ri sến”… ở mấy cái Bar Thiên Thai, Ạc-ăng-Sen… ở Bãi Trước… Vì vậy, giọng ca con sen hay con sến… đều như nhau… Và bà con… giận, khi nghe hoài mấy bản nhạc “tủ”, nên nói: – Mấy con nhỏ đó… là sến nướng… nên ca hoài!!! – Mấy con sến đó… ca đi ca lại miết, nghe mệt thấy mẹ!!!

Ở đầu đường Phan Đình Phùng, có nhà số 3 đó là Đài Phát Thanh Sàigòn… Ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt có tòa đại sứ Miên, bên kia đường là cây xăng rất lâu đời và ở ngã tư nầy, năm 63 hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu… Cũng ở ngã tư nầy, có tiệm cơm tàu, ở đây có món “cơm thố”… ngon bá chấy!!! Cơm thố được hấp trong cái xửng tre có cả chục ngăn, thố là chén nhỏ rí, chừng 3 muỗng cơm, vì vậy, ăn xong, thố chất 1 chồng 15 cái… cao như núi!!! Một số… dân chơi cầu 3 cẳng, loại tứ hải giai huynh đệ… tới ăn cơm thố ở đây, ý là, để khoe chồng thố cao nghệu… để “lấy le” với thiên hạ… đó nha bà con!!!

Phan Đình Phùng… cụng vô đường Lý Thái Tổ… ngay tại ngã ba… Ở ngã ba nầy, có Phòng Trà Lệ Liễu và chủ Phòng Trà là chị Ba Liễu! Quán “Chị ba Liễu” là chỗ gặp mặt mỗi chiều tối của rất nhiều Nhạc Sỹ – Ca Sỹ Sàigon trước khi đi hát Phòng Trà hay Hát Rạp hoặc quán Bar… Đây là “quán ruột” của Thanh Kim, Đệ Nhất Danh Cầm Hạ Uy Di… DK, HC, MLQ, GL… hát ở Phòng Trà Lệ Liễu cho khách (rất đông) thưởng thức…

Thí dụ: DK ca bài Ai Ra Xứ Huế thì chị ba Liễu “trả công” là 1 ngàn 8… Có “chàng – lính” bận đồ trận bốn túi, đội Bê Rê đen, vì là em (đệ tử) của Thanh Kim, nên chàng ta… xâm mình, bậm gan, đổ lỳ, dám… thót lên sân khấu Lệ Liễu để hát bài Đường Xưa Lối Cũ và bài Tàu Đêm Năm Cũ… (cũ mèm không hà) .Chàng hát… một cách khơi khơi, trong khi Nghệ Sỹ thứ thiệt ngồi lủ khủ ở đó…

Chàng lính trận nầy, vì ỷ có Thanh Kim… lo, nên hỏng lo trật nhịp, chàng ta cất tiếng… véo von liên tiếp hai bài tân nhạc, thì Chị Ba Liễu… coi bộ… nghe được được, chị… tức tốc tiến ra sân khấu, liền… móc bóp, xỉa cho chàng 9 trăm đồng… gọi là “lính góp vui”, rồi Chị Ba còn… xúi… (quá đã) – Đêm nào, nếu rảnh… em tới hát nhen!!! Lính mà… hát vậy, được đó…!!! – Dà dà… $%%$!!! (vô mánh) Anh chàng lính nầy, về đơn vị… móc xấp tiền, dứ dứ lên trời… hét: – Bữa nay, tao đãi anh em cả làng một chầu… cơm tấm – cà phê – thuốc lá!!! – Chắc còn… dư bộn tiền đó ông thầy!!! – Thì thì… Băm 3 mí lỵ tôm khô củ kiệu… cho sạch nhách luôn!!! – Hoan hô thẩm quyền!!! – Hé hé…cho xin chữ ký đi ông… khò khò…

Phòng trà Lệ Liễu là chổ Nghệ Sỹ Sàigòn… tụ lại nói dóc, trước khi đi hát… Và cũng là chỗ “tụ tập” của những tay tổ đờn vọng cổ Văn Vỹ, Năm Cơ, Ngọc Sáu… Khi Ca Sĩ hát xong tới khua, trước khi về nhà, lại tụ nhau ở quán Cháo Đêm sau hàng cây… dái ngựa cổ thụ ở đường Hồng Thập Tự, quán cháo cũng gần đường xe lửa từ bên đường Phan Đình Phùng chạy qua…

Cũng ở đường Phan Đình Phùng, ngay trong vòng chợ Vườn Chuối là nhà của Soạn Giả Nguyễn Phuong, khi ấy anh Nguyễn Phương có đứa con gái nhỏ cỡ trên 10 tuổi và nó cùng với Ba Má… đặt lời thoại cho vở cải lương!!! Cô gái nhỏ cùng ba má ngồi 3 góc trong phòng, đóng làm 3 nhân vật… nói chuyện, rồi đánh máy luôn, đó là ”làm thoại” để Nguyễn Phương “lấy câu trẻ con” soạn tuồng cải lương… Đó là cách Nguyễn Phương đang soạn tuồng và… bị bắt tại trận… hì hì…

Nguyễn Phương là Đạo Diển cho đoàn Thanh Minh Thanh Nga và mỗi tuồng cải lương được đánh máy sáu bảy bản để cho anh em “nhắc tuồng” đứng sau màn nhung hay cánh gà… đọc câu cho Đào Kép đứng ở ngoài sân khấu… nói hay ca!!! (cứ tưởng Đào Kép học thuộc lòng hết vở tuồng, hỏng có đâu nhen!!!) Nguyễn Phương là trưởng ban kịch Tân Dân Nam , chuyên kịch trên đài truyền hình Sàigòn chiều thứ bảy hàng tuần, gồm có hề TV, TT, NĐT.vv… và bà vợ của Nguyễn Phương là chị của phu nhân tướng CVV… Bởi vậy, do đó, Nguyển Phương… mới “tó” được cái giấy phép ngon lành… là mượn tàu Hải Quân để đóng phim xi-la-ma!!! Đó là phim “Hải Vụ 709” định quay ở Rạch Giá… Nhưng vì tình hình chiến sự ác liệt ở đó, nên phim Hải Vụ 709 bị đình chỉ… kéo dài và sau cùng phải bãi bỏ, nếu không, thì anh chàng Thủ Đức sẻ làm… tài tử xi-nê mà lại đóng vai Trung Úy Hải-Quân… nhảy xuồng đổ bộ rồi! Uổng thiệt nhen…

Cũng thời gian đó, ban Tân Dân Nam đang “dợt tuồng” kịch truyền hình, đó là vở “Ai Là Thủ Phạm” tại nhà anh Nguyễn Phương… Lúc đó chàng (vì là lính) được Nguyễn Phương giao đóng vai Cảnh Sát Trưởng… Úi chà chà… Nguyễn Phương biểu chàng ta phải “tập” trước… cách còng tay thủ phạm ăn trộm kim cương, em NĐT đóng vai thủ phạm… Còng tay… mà phải “tập” ý là… để chàng… còng… mà hỏng đau tay NĐT!!! Tới khi lên sân quay 2 tại đài Truyền Hình Sàigòn… ngài Cảnh Sát Trưởng, bước vô, làm mặt ngầu, liền móc còng (hân hạnh) còng tay NĐT… ngay tức khắc nhen!!! Bàn tay NĐT đẹp như chính NĐT, chàng lính cầm 2 tay người đẹp, tra vô còng số 8… mà chàng ta thấy… quá đau lòng!!! Hì hì…

Trên truyền hình, anh chàng lính, chỉ… lộ diện trên màn ảnh nhỏ của Đài Truyền Hình Sàigòn chỉ được có… 30 giây cuối cùng của vở kịch… thôi hà! Soạn Giả Nguyễn Phương chuyên môn hút Thuốc Gò khi soạn tuồng và điếu nào cũng bự tổ nái, đốt cháy liên tục, khói bay mờ mịt như đống un buổi chiều tà! Và trên bàn viết thường có… rờ vẹt… ba bốn khúc Thuốc Gò loại “nặng” đô, đó là… phòng khi, nửa đêm soạn tuồng… mà hết thuốc hút!

Từ ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt chạy lên tí nữa là Ngã 6 Sàigon, ngay “bùng binh” ngã 6 nầy, có xe lửa chạy qua và là chổ bắt đầu của đường Yên Đổ, ở đây, trên đầu đường Yên Đổ, có khu Kiều Lộ (sửa, tráng dầu đường hư… ) Nằm chung trong khuôn viên khu Kiều Lộ… là Sở Phú De đó đa!!! Phú De là chổ… nhốt chó chạy rong, bị “xe bắt chó” bắt được trong đường phố! Ai mất chó, cứ vô Phú De tìm là y như rằng… nó ngự ở đó và bỏ tiền chuộc chó về! Bởi đó, hồi xưa, DA trong báo CO có viết bài Phú De Giao Chỉ, đọc nghe nhức xương Trong khu Kiều Lộ nầy có cái… cưa tay, bự chà bá, dùng xẻ gổ lóng… Ở đây có Kỹ Sư Bê và Hồ Lợi và Hồ Lợi là dân chơi tài tử… chánh cống bà lang trọc. Trong văn phòng khu Kiều Lộ của Hồ Lợi… có tùm lum… đờn cò, gáo, xến, ghi ta thùng, ghi ta phím lỏm… treo tá lả trên tường, để nhân viên nào… quởn mà khoái đờn vọng cổ thì cứ vô… tập vợt thả giàn và… Hề Minh và danh cầm Thanh Kim, Tạo Minh Đời… vv… xuất thân từ đây! Hề Minh là danh hề diễu có tiếng trên bầu trời Cải lương một thời… Tạo Minh Đời cười được 18 giọng riêng biệt và còn có khiếu một mình vừa nói giọng ông nội, giọng cháu nội trai, gái, giọng con gái… rất hay, giống y giọng… như trong “gia đình bác tám”… nhất là giọng chó mèo cắn lộn… là nghe hay hết phản luôn!

Nhứt là… mở đầu câu… a… bê… cê… ca… nháy giọng xe lửa đề pa… của bản Chuyến Xe Lửa Mồng Năm của Trần văn Trạch… y chang Trần văn Trạch!… nhưng “hỏng có thời” nên anh Đời không nổi tiếng như anh Minh và anh Kim… Thanh Kim là Đệ Nhất Hạ Uy Di Cầm chuyên đờn 6 vọng cổ… nhưng né… ló mặt trước bàn dân thiên hạ truyền hình, Thanh Kim chỉ đờn cho gánh hát và chơi tân nhạc cho quán Bar và Phòng Trà và học trò Thanh Kim là TKH… – Anh Kim, sao anh chỉ “thâu dỉa” mà hỏng thấy anh lên sân khấu hay truyền hình ? – Tao… xí-giai thấy bà… miệng rộng tàn hoạt, cười hô hố, tướng tá như đấu bò! – Thì… có sao đâu… – Tao… trốn… để khán thính giả tưởng tao… đẹp trai đó mầy… hỏi hoài!!! – Ờ ờ… hehehe…

Năm 1965 đường Xa Lộ Saigon – Biên Hòa làm xong và dọc bên đường xa lộ đang đào để xuống ống cống vuông vuông lọt lòng trên 2 mét của Sàigòn Thủy Cục… Lúc đó, chạy xe gắn máy ở Xa Lộ thiệt… là êm, êm như mơ… Do đó, mấy tay anh chị… mới dám đi Gobel, Sachs, Rummi… chui lòn qua bụng xe be trên có 3 lóng gỗ… dài thòn bự tổ kền, đó là… chọt lét tử thần!!! Cũng thời… xa xưa ấy, khi chở “người đẹp” ngồi đằng sau Xe Gắn Máy thì hai chân người đẹp Để Về 1 Bên, không Cô nào… dám gác cẳng 2 bên! Nếu xe chở là chiếc Vespa Spring… thì thấy “nàng” ngồi sau… ôm eo ếch bác tài… thì… thì… ngó, thấy… đẹp như mơ luôn!!!
Còn nói gì “mấy nhỏ áo dài trắng” đi Vélo Solex… thì dòm… hết phản nghen!
Gỗ rừng đem về đổ đống ở chỗ ngã ba xa lộ đi Vũng Tàu, nên ngã ba nầy có tên Ngã Ba Bến Gỗ… Từ ngã ba Bến Gỗ tới một xí là Căn Cứ Long Bình của Quân đội Mỹ… Chỉ mỗi con đường Phan Đình Phùng mà có… quá xá chuyện xưa tích cũ...

Chàng Hiu

Tu Nguyen * Hang Hoang * Vinh Lieu Nguyen * Yen Tran

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

GIẢI NGHĨA...THÔNG MINH...

1) Học cách làm sạch cơ thể khi tắm rửa gọi là học kỳ.

2) Học những điều vô ích, làm phí phạm thời gian tiền của gọi là học phí.

3) Học những điều bậy bạ vô bổ, không đúng chỗ gọi là học bạ.

4) Học cách trò chuyện trong giao tiếp gọi là học trò.

5) Học nêm nếm thức ăn, thức uống gọi là học vị.

6) Học cách dậy đúng giờ, chống ngủ gà ngủ gật gọi là học thức.

7) Học cách làm đồ giả gọi là học giả.

8)Người già đi học gọi là học cụ.

9) Bảy điều cần phải học gọi là thất học.

10) Học đang vô, tiếp thu tốt gọi là vô học.

11) Học lâu dài gọi là trường học

MỘT THỜI ĐỂ... CÃI



Một ông nhà binh nhanh chân phát biểu truớc:
- Các ông có biết không?  mỗi cuối tuần tôi chở vợ đi chợ, tôi đẩy xe theo sau bà.  Mua đầy xe, tôi hỏi bả “Về chưa?”  Bả nói ông chở cho tôi lại chợ khác mua một chai nuớc mắm. 
Tôi hỏi:
-"Sao bà không mua ở đây luôn.”  Bả nói:
-"Ở đây nuớc mắm tới $2.99,
còn chợ kia chỉ có $2.88”.
Từ chợ nầy đến chợ kia lái xe 45 phút, bả quên tính tiền xăng.
Tôi với bả bắt đầu… cãi.

Ông nhà báo chen vô:
- Còn tôi, khi lái xe, tôi quẹo tay phải, bả nói sao ông không quẹo tay trái. Tôi chạy nhanh, bả kêu tôi chạy chậm lại. Tôi chạy chậm, bả nói ông chạy như rùa bò. Tôi nói: “để tôi order hãng xe Toyota chế cho bà xe có 2 tay lái, để bà khỏi lái xe bằng miệng.” 
Và, thế là cãi nhau.

Ông nhà bếp lắc đầu và kể chuyện ông nghe đuợc như sau:
- Có ông kia lái xe chở bà vợ ngoài xa lộ, chạy nhanh, bị cảnh sát quay đèn chận lại. 
Cảnh sát hỏi
-“Ông có biết lỗi gì không?” 
ông chồng chưa kịp trả lời, bà vợ tươm tướp la lên! 
-“Tôi đã nói ông rồi, ông chạy bạt mạng 7, 8 chục miles có ngày bị phạt mà ông không chịu nghe.”
Ông chồng  giận dữ la bà vợ:
- Để tôi lo, bà im cái mồm bà lại đi.
Không ngờ ông Cảnh Sát này là người Việt, nghe đuợc tiếng Việt, hỏi bà vợ:
- Bộ ông chồng bà ở nhà cũng nạt nộ bà như vậy phải không?
Bà vợ liền trả lời:
- Đâu có.  Bữa nào ổng uống ruợu say, ổng mới la như vậy.
Ông chồng nhận 1 ticket vuợt tốc độ và 1 ticket uống ruợu lái xe.
Thế là vợ chồng lại cãi nhau.

Ông nhà binh nghe nói nãy giờ nhảy vô:
- Bà ngoại con Tép của tôi cũng không thua ai.
Bả nói với tui:
- “Sao tôi thấy ông ở Mỹ mấy chục năm rồi mà không hội nhập đuợc gì hết.”
Tôi tức quá:
- Bà không thấy tôi hội nhập sao? Ai cao máu, tôi cũng cao máu, ai cao mỡ, tôi cũng cao mỡ, ai tiểu đường, tôi cũng tiểu đường, tôi còn hơn nguời ta cái thấp khớp nữa.  Bà còn muốn tôi hội nhập gì nữa?
Bà ngoại còn  nói:
-“Ý tôi muốn nói là ông không biết galant như nguời Mỹ, mở cửa xe cho vợ, mua bó hoa tặng vợ ngày Birthday, ngày Valentine.” … 
- Trời ơi! Tôi cũng  muốn mở cửa xe cho bà lắm chứ, nhưng sợ người ta nhìn vào, người ta nói: “Thân bà một đống, cọp ăn 3 ngày không hết, bộ bà đó bị bịnh bại liệt gì mà không mở cửa xe được". Còn birthday của bà, tôi mua cho bà 1 bó rau muống, 1 bó hành, 1 bó ngò, bà còn muốn gì nữa.
Thế là ông bà ngoại của con Tép bắt đầu cãi.

**Ông nhà văn nãy giờ ngồi trầm ngâm, cuời mím chi, chậm rãi kể:
- Có một ông chồng đi sau xe chở quan tài của vợ đưa ra nghĩa trang. Ông bạn đi gần bên thấy ông này sao cái miệng nhép nhép như đọc kinh. Ông bạn tò mò đến gần hơn, thì nghe ông này không phải đọc kinh, mà ông ấy đang hát.
Ông bạn hỏi:
- “Đám tang vợ vui vẻ gì mà ông hát?”
Ông chồng trả lời:
- "Từ ngày cuới bả đến giờ, chỉ có hôm nay tôi đi chung với bả mà không cãi nhau”

Ông nhà bếp chen vô một chuyện khác. Ông kể năm rồi, ông phải mổ van tim. Bà vợ ngồi kế bên than:  -“Ông ơi, ông chết tôi chết theo”
Ông hoảng hồn:
- “Thôi bà ơi, để tôi đi một mình cho thanh thản, khỏi phải đi chung, khỏi phải cãi với bà.”

*****Nếu quí bạn nào thật sự muốn sống hạnh phúc, chết bình an, thì hãy đọc Sáu Điều Răn dưới đây của HỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI SỢ VỢ
(đọc được trên báo, xin phép và cám ơn tác giả):

1. Kính vợ đắc thọ. 
Sợ vợ sống lâu.
Nể vợ bớt ưu sầu. 
Để vợ lên đầu là truờng sinh bất tử.

2. Đánh vợ nhừ tử, là đại nghịch bất đạo.
Vợ hỏi mà nói xạo là trời đất bất dung

3. Chê vợ lung tung là ngậm máu phun người. 
Gặp vợ mà không cười, là có mắt mà không tròng

4. Để vợ phiền lòng, là tru di tam tộc.
Vợ sai mà hằn học là trời đánh thánh đâm.

5. Vợ gọi mà ngậm câm, là lòng lang dạ sói. 
Để vợ nhịn đói là tội nhân thiên cổ.

6. Để vợ chịu khổ là bất tài vô dụng. Trốn vợ đi ăn vụng là ngũ mã phân thây…