Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2019

SỬ KÝ HAY SỬ NGHỊ

Fb Giang Kiến Phương

Sử phải được ký, tức những sự kiện đã qua được ghi chép lại như nó đã là chứ không phải được soạn thảo trên bàn thương nghị như một giáo sư nào đó của Hà Nội đề nghị thương thuyết với phía China để thống nhất Sử Việt. Cùng là Sử, nhưng Sử ký khác hơn Sử nghị!

Tương tự vậy, nghệ thuật không thể được sản xuất theo đơn đặt hàng mà phải được sáng tác bằng tâm tư tình cảm, bằng cả tấm lòng của người nghệ sĩ. Khi đó, nghệ sĩ và tác phẩm hòa quyện vào nhau thành một, không còn phân biệt đâu là nghệ sĩ, đâu là tác phẩm nghệ thuật nữa. Trong tác phẩm nghệ thuật luôn đâu đó phảng phất con tim và khối óc của người nghệ sĩ làm ra tác phẩm.
Còn lại, cái được sản xuất theo đơn đặt hàng tuy có thể mang màu sắc, dáng dấp giống như nghệ thuật. dễ khiến ta nhầm lẫn đó là nghệ thuật. Nhưng không chắc, thực chất có khi đó chỉ là những sản phẩm công nghiệp vô hồn, được sinh ra để phục vụ cho những nhu cầu nào đó rồi chết đi theo đúng quy trình, như người ta quăng cái ly giấy vào thùng rác sau khi uống nước vậy!

Ngoài "Dư âm" ra, nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Văn Tý còn tác phẩm nghệ thuật nào để người đời trân trọng ghi sâu vào ký ức? Hay chỉ còn là những sản phẩm công nghiệp được sản xuất theo đơn đặt hàng, những quả trứng được gà đẻ ra sau khi gà được cho ăn lúa? Liệu những "Bài ca năm tấn", "Em đi làm tín dụng", "Dáng đứng Bến Tre"...có là những tác phẩm nghệ thuật?

Xin chú ý, cái giống nghệ thuật không chắc đã là nghệ thuật.

Cho nên, thôi, hãy để ông yên nghỉ và đừng tốn thời gian suy nghĩ tại sao ngoài "Dư âm" ra, người đời không còn nhớ đến "tác phẩm" nào nữa của ông. Bởi cùng là phẩm, nhưng tác phẩm khác hơn sản phẩm.

R.I.P ông, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý!

Giang Kiến Phương



Thứ Tư, 11 tháng 12, 2019

CHẾT THẾ CÓ OAN KHÔNG ?



Chủ tịch Hiệp hội những người chết oan đến tuổi hiu. Ông lo lắm, đợt này không tìm được chủ tịch mới thì lại phải làm thêm khóa nữa. Bốc điện thoại gọi cho thư ký của hội, chủ tịch hỏi, anh em chết oan năm nay có đứa nào mới nhể, chết xứng đáng thì bầu lên thay tao, chứ tao đéo làm nữa. Chết cũng không được nghỉ, suốt ngày họp hành nhọc bỏ mẹ ra.

Tổng Thư ký hội chết oan trình bày, năm nay khá đông anh ạ, nhưng cũng cứ nhàn nhạt như nhau, đúng là chết cũng chả có điểm nhấn.

Chủ tịch Hội gắt lên, thì phải xem kỹ, chú cái gì cũng chê. Hỏi xem thằng cu ruộm tóc xanh bị đâm xem nó như nào.

Thằng cu nhuộm tóc xanh hiện lên, mếu máo trình bày, cháu đang đi chơi, vừa nhuộm quả đầu xanh, bọn thanh niên nó đâm luôn. Nó bảo ngứa mắt.

Thư ký lại hỏi, thế mày không cãi được câu nào à, thằng cu tóc xanh nhăn nhó bảo, nó đâm óe phát, chết tươi. Giờ xuống đây trình bày với các bác chứ tính cháu không thích cãi nhau.

Chủ tịch hội bảo, thôi lui ra đi, đúng là ko có điểm nhấn gì cả.

Thư ký lại bảo, để em gọi cái thằng tranh hát karaoke bị đâm lên. Thằng cu bị đâm vì tranh hát karaoke vừa hiện lên vừa nghêu ngao. Tôi quen, tôi đã quen rồi em... Chủ tịch hội nghe nửa câu đã quát ầm ĩ, thôi cút, hát thế thì mày gặp tao cũng xác cmnd luôn.

Thư ký hãi quá chưa biết gọi ai thì chủ tịch lại thét, gọi thằng tỉu lượng kém bị giết, đái vạ bị đâm, đút tay túi quần bị xọc, bị đâm chết vì vật tay thua không đi mua rượu...Bị đá chết vì tranh cãi giới tính của con trâu trên lon nước ngọt... lên đây xem nào.

Thư ký nhăn nhó trình bày, anh ơi, bầu mấy đứa này lên chủ tịch hội, tuyệt đối không được. Còn bên Hội khác người ta nhìn vào chứ. Chúng nó toàn đứa trẻ, chưa có kinh nghiệm chết. Trình độ lý luận lại non.

Chủ tịch Hội thở dài, thôi, kiểu này lại phải cố thêm vài năm nữa chứ đúng là toàn đứa chết nhạt. Không đáng mặt đàn ông.

Thư ký bảo, vâng, thể loại chết vì vợ bơm ngực như anh ai mà qua mặt được.

Chủ tịch mơ màng, mẹ kiếp, đúng là phê thật chú ạ, cái túi silicon nó vỡ ra, mình tối nào cũng chụt choẹt, silicon ngấm dần, ngấm dần, tím tái đi, chết thế mới gọi là chết chứ.

( Copy lại trên trang fb Viet Hoang )

PS: ảnh tìm trên google, ko thấy nguồn



NHỚ TRƯƠNG QUANG THI



Có nhỏ em lấy chồng Việt kiều. Hồi đó chồng nó về Sài Gòn làm việc, hai đứa gặp nhau, cưới nhau rồi sanh ra con bé. Chưa một lần nó đặt chân lên xứ Mỹ nhưng con nó nghiễm nhiên là công dân của Mỹ và hưởng mọi trợ cấp như một công dân Mỹ.

Rồi hai đứa trục trặc dẫn đến ly hôn, con nó cũng chưa tới quê của nó bao giờ, nhưng mỗi tháng nó vẫn nhận hơn một ngàn tiền trợ cấp để ăn học đàng hoàng, mọi vấn đề mẹ nó liên lạc với cơ quan lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn.

Nhà máy mới có hai vợ chồng quê ở Cà Mau. Hai người lên Đồng Nai từ hồi trẻ, gặp rồi lấy nhau đẻ bầy con. Cả nhà không miếng giấy lận lưng. Hộ khẩu không, khai sanh không, kết hôn không, tạm trú không. Coi như cặp này tiên phong đi tắt đón đầu cuộc cách mạng 4.0 do đảng ta khởi “sướng”.

Không có giấy khai sanh thì đương nhiên không được đi học rồi. Thế là hai đứa trẻ lăn lê bò chồm để lớn lên, bất chấp dân tộc đang tiến mạnh về phía thiên đường xã nghĩa.
Lọ mọ chầu chực, năn nỉ ỉ ôi chẳng ai cho nó học vì quy định thế rồi.
Hôm kia mấy đứa công an đi kiểm tra hộ khẩu, qua làm việc mình nói với thằng trưởng công an xã:
Bằng mọi cách ông phải giúp tui cho nó đi học chớ như vầy túi thấy không cam tâm.
Nó ngồi suy nghĩ một hồi rồi móc điện thoại gọi cho cô hiệu trưởng.

Xong nó nói:
Ok! Giờ vầy. Tui xác nhận lụi cho cha mẹ nó tạm trú ở đây. Ông qua gặp cô hiệu trưởng cho nó tham gia học dự thính. Coi như đạt cái mục tiêu của ông là tụi nó biết đọc, biết viết, vậy thôi.

Tốt rồi! Cũng chẳng thể mong nó có bằng cấp để làm cái mẹ gì, tạm thời bằng lòng với những gì đang có. Thiên đường mà.

Hôm qua đi mua cho mấy bộ đồng phục, sáng nay kêu cha nó dắt đi. Cha nó nói chú dẫn đi đi chớ tui qua bển biết đường nào mà nói.
Đù má! Muốn chưởi thề ghê luôn.

Chở qua gặp cô hiệu trưởng, mọi thứ ok.
Cổ nói thôi thì các cô làm công tác giáo dục là chính chớ giờ biết sao. Nhận các cháu đã là sai quy định mất rồi. Sẽ xếp cho hai cháu học dự thính, tiếp thu kịp thì sang năm lên dự thính lớp hai, không thì lại tiếp tục dự thính lớp một thêm năm nữa.

Mình nói thôi thì trăm sự nhờ cô. Mấy đứa này xưa nay chẳng học hành gì, nó lớn lên trong như cây cỏ dại thành ra chắc chắn chẳng ngoan hiền như học trò của các cô đâu.

Cổ cười hiền. Cái xứ mình nhiều thứ ngộ quá phải hông anh? Quy định không phù hợp lẽ ra phải sửa, thế nhưng không. Chúng ta nhất định phải tự sửa mình cho phù hợp với các quy định của ngành, không có cách nào khác.

Mình được cái số hên. Đi đâu cũng gặp quý nhơn phù trợ. Gọi cho thằng công an kêu ra uống cafe, tui tạ ông cái zụ hai đứa nhỏ được đến trường. Nó kêu thôi! Ông làm gì làm đừng có để phiền tới tui là được.

May mà nó hông chơi Facebook.

TRƯƠNG QUANG THI


BÓNG ĐÁ VÀ CHÍNH TRỊ



Bỏ ra ngoài chuyện chính chị chính em gắn bóng đá với lòng yêu nước thì tôi trân trọng cả ông Đức, ông Park với tính cách là những người yêu bóng đá. Một môn thể thao thú vị và tuyệt vời. Nó có tác dụng gắn kết còn người lại với nhau dưới một màu cờ hay sắc áo.

Chính vì thế các chính chị gia thường hay tìm cách gắn bóng đá vào mục tiêu chính trị.

Có khi là định hướng : Nhiều người nói sự cuồng nhiệt với bóng đá thường xảy ra ở những đất nước nghèo khổ kém phát triển. Ok, điều đó rất đúng...Khi tôi còn nhỏ, đất nước chiến tranh, nghèo là chắc... Lũ nhỏ chúng tôi đâu có cine, hý trường, iPhone, iPad... Thì chỉ có lăn ra đồng, banh nhựa, hoặc bất cứ thứ gì tròn tròn đá được là vui. Hơn nửa thế kỷ qua, người nghèo có gì mà chơi... Cho nên người làm chính tri nào mà không lợi dụng bóng đá để tạo niềm vui cho người nghèo khổ, giúp họ quên đi những bất công, chèn ép trong đời. Trong thủ thuật này thì cộng sản là số một bởi vì bóng đá đâu phải là thú chơi dành riêng cho người giàu...

Trong lịch sử thế giới từng có chuyện vì thắng thua trong bóng đá mà phát động chiến tranh. Ai dám nói bóng đá chỉ là một môn thể thao lành mạnh đâu. Chuyện nhảy cầu, chém giết vì thua độ còn sờ sờ ra trước mắt xá gì ba cái đứa cởi truồng nhảy nhót hay phóng xe bạt mạng với danh nghĩa đi bão. Tôi tuy không tham gia nhưng rất nhiều lần chứng kiến, chụp ảnh quay phim ghi nhận lại. Riết rồi cũng thấy nhàm, thấy quen đến độ chẳng còn sức đâu mà buồn giận. Có lần ở Bảo Lộc thấy anh cảnh sát đứng chơ vơ giữa một rừng xe đi bão. Thậm chí có cả băng nhóm đứng quanh anh để chụp hình lưu niệm. Trời ạ, dám mà phản ứng...Lỡ có gì thì ai nuôi vợ con... Tôi lại thấy thương hại anh ta.

Bóng đá, ca hát, nghệ thuật đều phải có tự do mới có những sáng tạo, những tác phẩm để đời. Nếu bóng đá, ca hát chỉ lồng trong khuôn khổ, chỉ lĩnh đồng lương cố định thì ai đâu mà cố sức mà liều lĩnh. Bắc hàn và trung quốc vẫn dành cả đống huy chương nhờ vào chuyện khổ luyện và hy sinh sức người. Họ đã thành công tring việc biến các vận động viên thành những cỗ máy. Mà những cỗ máy đó đạo đức là sáng ngời luôn. Chỉ có hy sinh vì chính nghĩa.. Thậm chí ngay cả khi lĩnh huy chương, họ vẫn ôm khư khư ảnh của lãnh tụ và khóc tức tửi, ai oán khi nghĩ rằng nhờ có lãnh tụ mà họ mới có huy chương. Họ thật lòng đấy không giả tạo đâu. Đây chính là sự độc đáo của cộng sản mà thế giới phương tây đến bây giờ không hiểu được. Cũng như họ không tài nào hiểu được vì sao có những chiến binh iss liều chết ôm bom cảm tử chỉ vì lời hứa nếu chết họ sẽ được lên thiên đàng, được cưới một hơi cả chục con vợ đẹp.

Giữa hai thế giới, hai thể loại con người đó bạn sẽ chọn thể loại nào ?

Có người từng hỏi tôi ở phương tây họ có ăn mừng, nhảy nhót, nhậu nhẹt, đua xe và cởi truồng sa đọa như ở VN không ? Tôi nhớ là có hết chỉ là đua xe đi bão thì hình như không vì xứ người ta đâu có xe gắn máy như ở VN còn lái xe hơi phóng ra đường gây đại họa thì...tù rục xương... Do cơ chế và hoàn cảnh xã hội thôi..

Tôi không đi bão, không ra phố tham gia với mọi người, không cá độ...vvv nhưng dù ở nhà tôi vẫn thấy phấn khích. Tôi cũng la hét, nhảy tưng tưng mỗi khi cầu thủ VN đá tung lưới đội bạn... Đó chính là niềm vui, là sức mạnh của bộ môn bóng đá đem lại cho mỗi người chúng ta.

Tôi ủng hộ bóng đá và những hệ lụy mà nó mang đến. Như vậy không biết tôi có bị xếp vào hàng ngũ những người ba phải hay không ?

TRẦN PHONG VŨ
11/12/2019


TRUYỆN KIỀU VÀ TIẾNG VIỆT



Cách đây ít lâu, một người bạn có nhắc với tôi câu nói của Phạm Quỳnh : Truyện Kiều còn thì Tiếng Việt ta còn...Cứ như đó là một chân lý sáng ngời vậy. Và tôi đoán là con bọ già ND Xuân cũng tin và viện dẫn điều này khi đả phá chữ quốc ngữ vậy...

Tiếng Việt có lịch sử từ mấy ngàn năm nay từ khi khai sinh ra dân tộc VN. Chính tiếng Việt đã giúp phân biệt người Việt trong cộng đồng đa dân tộc của thế giới. Nghe tiếng nói là người ta nhận ra bạn so với những người tàu, người hàn, người nhật, người thái.... Chính tiếng Việt và dân tộc Việt mới khai sinh ra mấy ông nhân tài cỡ Nguyễn Du, Phạm Quỳnh... và các tác phẩm để đời. Từ khi nào mà chúng ta bị mấy ông chính trị gia lừa phỉnh bằng những luân điệu như vậy.

Nguyễn Du là một đại thi hào, truyện Kiều của ông ấy gắn với văn hóa Việt Nam, thấm vào trong máu người Việt đến độ mẹ tôi một người phụ nữ ít học mà lúc trẻ vẫn ru con à ơi bằng mấy câu thơ Kiều. Nhưng không thể gán ghép một cách vớ vẫn là mất Kiều là mất dân tộc được. Đó là chính trị...

Cũng giống như chuyện mấy anh cổ động viên bóng đá vào sân bóng mà còn ôm theo ảnh ông Hồ, ông Giáp vậy... Đó là thứ niềm tin ngu xuẩn. Đá banh, thắng hay thua đều do trình độ, kỹ thuật tay nghề của cầu thủ và huấn luyện viên..Xa hơn nửa là điều kiện sân bãi, thời tiết và ức chế tâm lý trước sự cổ động của khán giả. Làm gì có ông nào phò hộ ông nào ??

Tất cả chỉ là chuyện chính trị, tuyên truyền để lôi kéo quần chúng vì mục đích chính trị

Bên cạnh tình cảm yêu thích bóng đá, yêu thích văn chương, hội họa thi ca thật sự thì mọi sự cổ vũ, ngợi ca và phê phán đều có liên quan đến chính trị và tuyên truyền

Bài viết này cũng không nằm trong ngoại lệ..
Bạn có tin không ?

TRẦN PHONG VŨ
11/12/2019




Thứ Tư, 16 tháng 10, 2019

SỰ NHẦM LẪN CỦA THẦY MẠNH



Thầy Mạnh này không phải là thầy Mạnh tử. Thầy Mạnh tử mà có nhầm lẫn hay sơ suất điều gì thì hơn hai ngàn năm nay thiên hạ đã mổ xẻ… góp ý hết rồi, không tới lượt tôi “hô hoán. ” Đây là thầy Nguyễn Đăng Mạnh, “nguyên giáo sư đại học”, tác giả cuốn Hồi ký mà nghe nói ông chỉ viết riêng cho mình đọc thôi, chớ không định in hay phổ biến (người ta có nhầm không? Viết riêng cho mình thì thầy viết Nhật ký chớ, sao lại là Hồi ký? ). Nhưng không hiểu sao có kẻ nào tung nó lên mạng Internet khiến thầy Mạnh gặp rầy rà chút chút (dường như là với đồng nghiệp cũ của thầy và một số vị “nguyên” lãnh đạo).

Tôi có một bản pdf cuốn hồi ký này do một người bạn có hảo ý chuyển cho, nhưng tôi bận “chuyện sinh nhai” chưa có dịp đọc cuốn sách cho đến đầu đến đũa mà chỉ đọc “nhảy cóc” theo lối hú họa. Và tôi bắt gặp một vài đoạn như thế này:

(Tất cả các phần và chữ in nghiêng trong bài viết này là nguyên văn trong cuốn hồi ký của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, những chữ in nghiêng đậm là do người viết bài này nhấn mạnh)

(Bắt đầu trích):
“Vào khoảng 1997, 1998 gì đó, Nguyễn Hưng Quốc về nước có đến thăm tôi. Anh vốn là học sinh ở Sài Gòn dưới thời Nguyễn Văn Thiệu. Sau 30-4- 1975, anh ở lại thành phố và học văn ở Đại học sư phạm Sài Gòn. Tốt nghiệp, anh được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. ít lâu sau, anh vượt biên sang Pháp rồi sang Úc và hiện đang làm việc ở đấy.

Anh nói, sở dĩ anh vượt biên không phải vì sợ khổ mà cảm thấy tương lai mù mịt. Anh kể tôi nghe một chuyện thật tội nghiệp.
Hồi ấy còn chế độ bao cấp, mọi thứ thực phẩm đều được phân phối theo tem phiếu, mà tiêu chuẩn thì rất hạn chế. Tuy nhiên do sự tháo vát của công đoàn, thỉnh thoảng anh em cũng được mua thêm ít thịt, ít cá ngoài tiêu chuẩn.

Anh nhớ hôm ấy công đoàn kiếm đâu được một mớ thịt đem về chia đều cho mỗi người một suất. Tất nhiên dù chia cẩn thận đến thế nào vẫn không thể đều nhau tuyệt đối được. Trong khi chia thịt, mọi người đứng vây xung quanh. Không ai bảo ai nhưng người nào cũng chăm chăm quan sát các suất thịt xem miếng nào ngon hơn, miếng nào nhỉnh hơn.

Chia xong, bắt đầu nhận phần. ưu tiên nhận trước phải dành cho bậc cao niên nhất trong khoa, ấy là thầy Viễn - Lê Trí Viễn. Do đã nhằm sẵn, nhằm kỹ trước rồi nên được lệnh, thầy chộp ngay lấy một miếng ngon nhất và có phần nhỉnh hơn các miếng khác một chút.

“Ôi! - Nguyễn Hưng Quốc nói tiếp - em phấn đấu đến bao giờ mới thành giáo sư Viễn để được chộp lấy miếng thịt kia! Phải vượt biên thôi! Vượt biên thôi! ”
Tình cảnh cán bộ, trí thức hồi ấy, giờ nghĩ lại, muốn rớt nước mắt.
Hoàng Ngọc Hiến, sau 1975, có vào Sài Gòn, đến thăm một người họ hàng. Anh nói, khi trở về Bắc, chỉ mong người ta tặng cho mấy thứ đồ điện như tivi, tủ lạnh hay quạt máy. Nhưng do kính trọng ông giáo sư Bắc Hà quá, người ta lại chỉ gửi ra toàn đồ mỹ phẩm đắt tiền để tặng bà giáo.

Anh Lê Quang Long vào Huế cũng gặp phải một trường hợp được kính trọng một cách tai hại như thế. Năm 1977, tôi và anh được mời vào dạy cho Đại học sư phạm Huế - gọi là thỉnh giảng.

Trường cao đẳng sư phạm ở gần kề trường đại học mời anh sang nói chuyện. Họ đón tiếp rất long trọng: tặng hoa, và giới thiệu giáo sư bằng những lời lẽ rất to tát, sang trọng. Nhưng chẳng thấy đưa phong bì gì cả. Đợi mãi mấy hôm cũng không thấy gì. Té ra ở trường này có một anh bạn cũ của Lê Quang Long dạy học ở đấy từ trước 1975. Người bạn này một hôm đến gặp anh Long và nói: “Bọn giám hiệu Cao đẳng nó ngu quá! Nó định đưa tiền cho anh đấy. Tôi vội gạt đi: “Đừng làm thế, bất lịch sự! Ông ấy là giáo sư đấy! ” Lê Quang Long nói với tôi: “Mình chỉ mong nó khinh mình, chứ kính trọng thế thì tai hại quá! ”
….

Hồi giải phóng Thủ đô, ta đã đốt sách đốt vở rất nhiều. Sách vở dưới chính quyền nguỵ đều bị coi là văn hóa nô dịch, phải phát động thanh niên, học sinh tập trung lại, đốt hết. Tưởng việc làm quá khích và dại dột ấy không lặp lại một lần nữa, khi giải phóng Sài Gòn. Té ra vẫn thế. Vẫn tập trung và đốt. Tôi đã được chứng kiến những kho sách tịch thu được gom lại ở sở Văn hoá Sài Gòn. Nhiều sách báo rất quý lẽ ra đưa vào thư viện để nghiên cứu đã bị quăng hàng đống dưới đất, chắc rồi sẽ bị huỷ hoại hết. Nghe nói nhiều người dân Sài Gòn sợ liên luỵ, ban đêm đã phải lén lút đem sách vở của thư viện gia đình vất đi. Một hiện tượng thật vô văn hoá, phản tri thức.


Trở lại với chuyến đi Sài Gòn của tôi cuối năm 1975.
Về đời sống vật chất, trong tương quan với Hà Nội lúc bấy giờ, Sài Gòn thật là giầu có, phồn vinh. Hàng hoá đầy ắp các cửa hiệu, tràn cả ra hè phố, cả lòng đường. Toàn những thứ miền Bắc rất khan hiếm, đặc biệt là quần áo, vải vóc và đồ dân dụng. Xe máy rất nhiều, trong khi miền Bắc xe đạp cũng không dễ có.
Vào Sài Gòn ngay sau 1975, người miền Bắc quả đã bị choáng ngợp. Nếu có chê thì chê theo một định kiến cũ kỹ về mặt đạo đức. Thí dụ, đàn bà con gái mặc áo dài không có áo lót, hở ra bên hông (Ông Vũ Thuần Nho gọi là triangle sexuel.) Nhiều cô mặc áo như cái maillot, có cô mặc quần soóc đi ngoài đường… vv… Giờ thì những cách ăn mặc như thế rất phổ biến ở ngoài Bắc.

Tôi ở Sài Gòn với bà chị ít lâu rồi trở lại Hà Nội, xin được bà chị cái tivi nhỏ xíu 9 inch, và mua được một ít quần áo và đồ gia dụng lặt vặt.

Dọc đường trở ra Hà Nội, thấy một hình ảnh rất phổ biến và cũng rất tiêu biểu của những cán bộ, bộ đội được nghỉ phép trở về Bắc: người nào cũng khuân theo một khung xe đạp và một con búp bê nhựa. Lính thì đi bộ, gánh một đầu cái khung xe, một đầu con búp bê. Khung xe cho bố mẹ, búp bê là quà cho con. Sĩ quan thì đi xe ô tô. Đến các bến phà thì lính cũng như quan dừng cả lại để chờ phà sang sông. Lính nhòm vào xe quan, thấy không phải khung xe đạp, mà ti vi, tủ lạnh, quạt điện…

Hồi ấy có câu: “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”. Một cách chơi chữ thật thần tình.

Sau chuyến đi này, tôi còn có nhiều dịp vào Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Nhìn chung người nông dân miền Nam ăn ở rất luộm thuộm, tuỳ tiện. Nhà nếu không lợp tôn thì lợp lá. Mái rất mỏng, vách cũng ghép bằng lá. Nền đất lụp sụp, tối tăm, ẩm thấp. Chung quanh cỏ mọc um tùm. Nhà vệ sinh làm ngay cạnh đường đi quay lưng ra những kênh rạch. Không kín đáo gì cả. Người ngồi hở mặt nhìn ra đường. Ngay ở Sài Gòn cũng vậy. ở những xóm nghèo, thấy nhiều nhà chỉ ghép bằng những mảnh gỗ thùng, đóng đinh. Chỗ đi tiểu có khi đặt ngay giữa nhà. Đồ đạc bên trong thì đủ cả ti vi, tủ lạnh, xe máy, nhưng nhà cửa thì cứ tạm bợ vậy. Những con kênh chảy qua thành phố thì hôi thối. Bờ kênh chen chúc những túp lều dựng ngay trên những đống rác, chuột bọ chạy lung tung. Cầu tiêu bắc ngay ra giữa kênh, đàn bà đi tiêu giữa ban ngày, chỉ lấy cái nón che…
Quan sát cảnh vật và sinh hoạt của con người từ Bắc vào Nam, tôi nảy ra ý khái quát này: từ Bắc vào Nam là đi từ miền đất nghèo đến nơi giầu có, từ chỗ hàng năm hễ gặp hạn hán hay lụt lội là đói khát, đến nơi dường như sờ đâu cũng có cái ăn, cây trái, tôm cá ê hề, muốn chết đói cũng khó.

Nhưng mặt khác, đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hoá cao đến nơi văn hoá thấp. ”
(Hết trích)

Đọc đến đây tôi bèn chột dạ: Khẩu khí của một giáo sư đại học ở “nơi văn hóa cao “có khác. Đó là khẩu khí của một bậc đại trí thức ở đất kinh kỳ ngàn năm văn vật nhìn về miền đất tuổi đời non nớt mới ba trăm năm, một cách bao dung và rộng lượng, như một hoàng đế ở trung nguyên nhìn ra man di bốn cõi. Phục quá.

Tôi nghĩ mình nên “tranh thủ” đọc cuốn Hồi ký của thầy Mạnh cho có “hệ thống, ” như một cách ngưỡng mộ một vị sĩ phu Bắc Hà mà vì lý do nào đó đã có “nhiều dịp” “đi từ nơi văn hóa cao đến nơi văn hóa thấp. ” Tuy vậy, cũng do “cơm áo không đùa với” … người đọc hồi ký thiên hạ, tôi lại đọc nhảy cóc vào Chương V: “Những bước thăng trầm của công cuộc đổi mới và những vụ “đánh đấm” “qui kết, chụp mũ” của cánh bảo thủ và cơ hội chủ nghĩa” để xem trong hành trạng của một bậc sĩ phu có khẩu khí lỗi lạc như thế kia đã xảy ra những chuyện gì không hay cho thầy.

Mà quả thật là không hay, trong mấy mươi năm làm cái nghề cao quí là giảng dạy ở đại học và viết sách phê bình văn học, thầy Mạnh phải vất vả chống chọi lại những trận đấu đá khốc liệt, có lần suýt tí nữa thầy không được phong hàm phó giáo sư. Là một bậc trí thức danh vọng, nên mỗi điều thầy Mạnh nói đều rõ ràng chính xác với tên người, chức vụ, học hàm, học vị, và thời gian xảy ra sự việc… Tất cả đều trong giới trí thức của thầy – dĩ nhiên bao gồm nhiều giáo sư đại học và nhiều nhà văn hóa văn nghệ lớn nhỏ - mà dù muốn dù không phải được coi là giới tiêu biểu cho đỉnh cao trí tuệ ở nơi văn hóa cao của đất nước.
Tôi thực sự ngỡ ngàng đọc thấy trong cuốn hồi ký thầy Mạnh kể ra trong số đỉnh cao văn hóa đó có hàng lô hàng lốc những “y” những “hắn” những “thằng” những “bọn” “vừa ngu vừa đểu”, những “thằng đểu, ” “thợ đánh, ” chuyên “đánh dẹp, ” “đánh đấm”, những “tiểu nhân” “có biệt tài dối trá, xỏ xiên, bịa đặt, nguỵ biện… giảo hoạt”, những “đầu gấu nổi tiếng phản bội (phản chúa, phản đảng, phản vợ, phản bạn, phản chủ, “phản thơ”, “phản phê bình, ” ) những “loại người bỉ ổi, ” “vô lại, ” trở cờ” “trở mặt, ” những “Xuân tóc đỏ” “bệnh hoạn” “phản bội” “bất chấp đạo lý làm người” chuyên “đánh hơi” “xuyên tạc, qui chụp có vẻ tinh vi hơn, nghĩa là xảo quyệt hơn. ” Và còn nhiều nữa những kẻ mà thầy Mạnh gọi là “trí thức, ” “lương tâm tắt ngấm” bị “cuốn vào con đường danh lợi” và suy nghĩ “những điều nông cạn, hời hợt. ” Nhiều kẻ trong số đó “vẫn bắt tay tôi – tức Thầy Mạnh - và trò chuyện rất thân mật” mỗi khi thầy Mạnh và họ có dịp tiếp xúc với nhau để thảo luận các vấn đề trí thức quan trọng.

Ngoài ra còn có “Những ông to đầu” mà “Trình độ văn hoá, trình độ nhận thức thấp tất đẻ ra lối lãnh đạo văn hoá một cách thô bạo. Chẳng hiểu gì cả mà dám can thiệp sâu vào chuyên môn, lại dựa theo ý kiến một tên vô lại. ” “… lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ”, và dùng lối chăn vịt, “lãnh đạo văn nghệ theo lối chăn vịt đàn. ” vân vân.

Những chuyện kể của thầy Mạnh có lẽ không hoàn toàn giống cách “cầm đuốc mà rê… cát bụi chân ai” như nhà văn Tô Hoài.
Hóa ra ở “nơi văn hóa cao” đó, thầy Mạnh buộc phải sống trong một môi trường mà chính thầy cũng nói “con người mà bị khinh bỉ mãi thì tự nhiên cũng thấy mình nhỏ bé lại, cũng hèn… ” Có người “chỉ mong nó khinh mình” nữa cơ. Tội cho thầy!.

Ngạn ngữ Tây có câu "Dis moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es. " Nhưng nhất định thầy Mạnh là một loại sen trong đầm (không phải trong bùn vì một nơi văn hóa cao không thể nói là có bùn được. ) Giá như thầy Mạnh là… Thầy Mạnh, ắt thầy đã được mẫu thân dời nhà đi tới chỗ khác sống từ khi thầy còn nhỏ; biết đâu nhờ vậy mà thầy không phải nhìn thấy các vị đồng nghiệp trí thức khả kính của thầy vội vàng chộp ngay lấy miếng thịt sau khi đã nhìn “chăm chăm quan sát các suất thịt xem miếng nào ngon hơn, miếng nào nhỉnh hơn,” hoặc các vị đường đường trịnh trọng chỉ mong người ta tặng cho vài món vật dụng hay đưa phong bì, hoặc chỉ mong nó khinh mình, mà khi được kính trọng thì thật tai hại. Nhất là thầy sẽ không có dịp chứng kiến cái điều quá khích và dại dột mà thầy cho là Một hiện tượng thật vô văn hoá, phản tri thức.

Trong giới trí thức của thầy Mạnh có rất nhiều vị tiến sĩ và phó tiến sĩ, nhưng dường như đạt được những học vị này không cần phải tốn nhiều công đèn sách cho lắm hay sao mà, đến nỗi, “Ông Hoàng Ngọc Hiến nói, dắt con bò sang Liên Xô nó cũng đỗ phó tiến sĩ kia mà! ” Rất may, dường như thầy Mạnh không có học vị tiến sĩ. Tuy vậy, thầy Mạnh được phong giáo sư đại học.

“Tiêu chuẩn phong phó giáo sư, giáo sư” không phải chỉ căn cứ vào “thành tích” và thâm niên sống lâu lên lão, mà chủ yếu là không có vấn đề về chính trị, “phải thông qua đảng uỷ của cơ quan công tác về tư tưởng, ” và được lòng lãnh đạo. Có lần thầy đã suýt không được phong học hàm phó giáo sư, không phải vì thầy dạy học dở mà chỉ vì có kẻ “đâm thọc, ” “tiếng đồn về bài viết của thầy đã vang đến đảng uỷ trường đại học Sư phạm và đảng bộ khoa văn” nơi thầy Mạnh có biên chế, đến nỗi thầy Mạnh phải hốt hoảng chạy vạy một phen giãi bày vất vả. Hú hồn.
Nhưng lẽ nào đối với một vị giáo sư, một bậc trí thức khả kính như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, những biểu hiện như trên kia trong bộ phận ưu tú của thượng tầng kiến trúc của xã hội lại phản ánh tinh thần “văn hóa cao” của phần đất nước mà từ đó thầy vừa bước lên xe làm chuyến Nam du trong giai đoạn “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng” (chữ trong hồi ký của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh) ? Nhất là trong đó nhiều lần xảy ra cái “hiện tượng” mà chính thầy cho là “vô văn hóa, phản tri thức. ”

Trên đường từ Hà Nội vào Sài Gòn, ngay khi còn ở bờ bắc nhìn sang bờ nam sông Bến Hải, điều đầu tiên thầy Mạnh thấy được là “Ở đâu con tố cha vợ tố chồng? ” và thầy hăm hở “thấy mình có cái say sưa hào hứng như là đại diện cho một dân tộc chiến thắng đang tiến quân vào Sài Gòn.” Trong tinh thần say sưa như thế, thầy không trông thấy gì nữa ngoài “người nông dân miền Nam ăn ở rất luộm thuộm, tuỳ tiện. Nhà nếu không lợp tôn thì lợp lá. Mái rất mỏng, vách cũng ghép bằng lá. Nền đất lụp sụp, tối tăm, ẩm thấp. Chung quanh cỏ mọc um tùm… ” “Đồ đạc bên trong thì đủ cả ti vi, tủ lạnh, xe máy, nhưng nhà cửa thì cứ tạm bợ vậy. Những con kênh chảy qua thành phố thì hôi thối. Bờ kênh chen chúc những túp lều dựng ngay trên những đống rác, chuột bọ chạy lung tung… ” Và, với khả năng “khái quát hóa” cao của một nhà trí thức lớn, thầy Mạnh bèn “khái quát” ngay đó là miền Nam “văn hóa thấp” của Mỹ ngụy tương phản với cả một xã hội “văn hóa cao” mà trong đó thầy đã từng tả xung hữu đột để ngoi lên và sống sót (Sống là chiến đấu mà!) Dù sao thầy Mạnh cũng không thấy ai ở miền Nam ăn cơm bằng gáo dừa, và đi dép mo cau. Chỉ có điều có người dại dột nói cho thầy Mạnh biết nhược điểm của người miền Nam văn hóa thấp là họ không khinh bỉ các bậc trí thức – dù là trí thức Bắc Hà – mà trái lại quá coi trọng các vị ấy đến nỗi họ có quan niệm “tai hại” đưa phong bì cho giáo sư là “ngu” là “bất lịch sự. ” Cho nên “Nếu có chê thì thầy Mạnh chỉ chê theo một định kiến cũ kỹ về mặt đạo đức” mà thôi. Đạo đức? Có lẽ theo đạo đức xã hội chủ nghĩa. Chắc vậy.

Người ta nói ban đêm con cú có thể trông thấy một con chuột nhỏ từ cách xa hai cây số, nhưng ban ngày nó không thể trông thấy núi Thái Sơn ngay trước mắt. Thầy Mạnh không phải là con chim cú nên không thể nói ban ngày thầy Mạnh không thấy gì; thầy cũng không như Trần Dần, “không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. ” Thầy Mạnh không vào Sài Gòn và Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng và miền Nam nói chung, bằng máy bay E Lai – hồi đó chưa có – Thầy cũng không đi ban đêm mà, tuy thầy Mạnh không nói nhưng người đọc biết là thầy đi ban ngày, và thầy có “nhiều dịp” ở lại đó ban ngày. Không kể từ giới tuyến 17 trở ra, từ Trị - Thiên trở vào thầy Mạnh phải đi qua các tỉnh Nam – Ngãi – Bình – Phú rồi Khánh – Ninh – Bình dọc duyên hải miền Nam, rồi đến Long Khánh, Biên Hòa trước khi vào đến thành phố Sài Gòn. “Vào Sài Gòn ngay sau 1975, người miền Bắc quả đã bị choáng ngợp, ” nhưng riêng với thầy Mạnh, thầy không thấy gì cả. Thầy “không thấy phố, không thấy nhà.” Đáng tiếc, thầy Mạnh đứng trên bờ kênh (Nhiêu Lộc chăng? ) thấy một “nơi văn hóa thấp,” không đáng so với một nửa nước “văn hóa cao” có “Những ông to đầu” mà “Trình độ văn hoá, trình độ nhận thức thấp tất đẻ ra lối lãnh đạo văn hoá một cách thô bạo. Chẳng hiểu gì cả mà dám can thiệp sâu vào chuyên môn, lại dựa theo ý kiến một tên vô lại.” “… lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ”, và dùng lối chăn vịt, “lãnh đạo văn nghệ theo lối chăn vịt đàn,” và ở đó người ta “thà bị khinh bỉ hơn là được kính trọng” mà “chẳng thấy đưa phong bì gì cả.”

Cuốn Hồi ký của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có lẽ đáng đọc vì ít ra– theo bảng Mục lục – tác giả đề cập nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới giáo sư đại học, các nhà văn hóa và văn nghệ sĩ miền Bắc, thành phần trí thức ưu tú của mỗi quốc gia, chắc là cung cấp được nhiều tư liệu sống động, và nóng hổi có tính văn hóa cao, ngoài “những kẻ xỏ xiên, đểu giả, phản trắc vẫn còn không ít trong xã hội ta hôm nay.” Tôi chỉ mới đọc được có chừng đó. Rồi thôi, không đọc nữa.

Dường như hoặc là Khổng Tử (? ) nói sai, hoặc Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có sự nhầm lẫn. Khổng Tử nói (? ) “Tứ thập nhi bất hoặc. ” Đến tuổi bốn mươi người ta không còn nhầm lẫn nữa. Thầy Mạnh nay đã cách xa cái tuổi cổ lai hy.

Thiếu Khanh

(http://www.luanhoan.net/Bai%20Moi%20Tron…/…/bm%2011-5-30.htm)

Đọc lại để suy ngẫm (VŨ)

Photo by Nguyễn Tuấn Anh


Thứ Ba, 10 tháng 9, 2019

DƯƠNG QUỲNH HOA

Tuong Dang

Khi được phỏng vấn về các nhà lãnh đạo Việt Nam, bà trả lời lạnh lùng:

– "Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản".

-----------------------------

Bác sĩ, cựu Thứ trưởng Bộ y tế Dương Quỳnh Hoa

"Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ, khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn".

"Trong chiến tranh, chúng tôi sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm trong tay Đảng, Đảng coi nhân dân như kẻ thù tiềm ẩn".

Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa vốn là thứ trưởng Bộ y tế, một trong những sáng lập viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam VN.

BS DQH vốn sống trong một gia đình Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40.

Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự.

LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt, trong đó, cái chết của ông không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn chính trị, vì bấy giờ ông có khuynh hướng thân Pháp.

Về phần bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng năm 1957. Do có quan niệm cấp tiến và xã hội, bà gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956, trước khi về nước.

Do vậy, bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập Đảng CSVN.

Tháng 12/1960, bà trở thành một thành viên sáng lập của MTDTGPMNVN, dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu -Mỏ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Năm 1969, bà giữ chức Bộ trưởng Y tế của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam.

Sau năm 1975, bà tiếp tục giữ chức Bộ trưởng trong Chính phủ Cách mạng lâm thời. Nhưng đến tháng Bảy năm đó, bộ máy này bị giải thể. Nhiều thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam bị vô hiệu hóa và được giao những chức vụ hình thức.

Bà được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa VI, Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Y tế phụ trách phía Nam.

Bà thôi chức thứ trưởng Bộ Y tế Chính phủ Thống nhất năm 1979 và xin ra khỏi đảng. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý, với điều kiện bà phải giữ im lặng. Nhưng sự im lặng đó không kéo dài được lâu, khi bà phải chứng kiến quá nhiều điều “phản cách mạng” từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam “thực thi” cái lý tưởng mà bà đã hy sinh cả đời cho nó. Khi được báo Far Eastern Economic Review (FEER) phỏng vấn ngày 17/10/1996: “Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 années passées?” Bà trả lời:
“L’effondement du mur de Berlin qui mit un terme à la “grande illusion“. Tạm dịch: “Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?” DQH: “Sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng.”

Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt Nam, bà trả lời:

– Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ, khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó: quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn. (“I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communism, and it is a failure – mismanagement, corruption, privilege, repression. My ideals are gone")

Giữa thập niên 1990, nhân chuyến thăm VN của Tổng thống Pháp Mitterrand, Đài Truyền hình Pháp làm một phóng sự về cuộc sống thường nhật của vợ chồng bà Dương Quỳnh Hoa. Ông chồng bà Hoa cũng là một trí thức tốt nghiệp tại Pháp, nhưng đã sớm nhìn ra bản chất của chế độ ngay từ những năm 1970, nên ông “mũ ni che tai” ngay từ thời ấy. Hình ảnh êm đềm của hai vợ chồng già bơi xuồng qua những con lạch nhỏ, với hàng dừa rủ bóng, đã không che dấu được những nhận xét vô cùng chua chát về chế độ. Khi được phỏng vấn về các nhà lãnh đạo Việt Nam bà trả lời lạnh lùng:

– Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản...
Trước đó bà đã trả lời phỏng vấn của Đài CBS Mỹ:

– Trong chiến tranh, chúng tôi sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm trong tay Đảng, Đảng coi nhân dân như kẻ thù tiềm ẩn.

Hình ảnh sau cùng khán giả truyền hình Pháp thấy về bà Dương Quỳnh Hoa là con thuyền nhỏ trôi khuất trong đám dừa nước, để lại đằng sau một vệt nước dài như những mối u uẩn cho đến suốt cuộc đời của bà.

Ngày 25/2/2006, người nữ đảng viên-cán bộ cộng sản đã đóng góp một phần không nhỏ vào chiến thắng 1975 lặng lẽ từ trần.

___

Bà Dương Quỳnh Hoa KHÔNG HỀ CÓ MẶT trong đoàn VN kiện các công ty Mỹ về chất độc Da cam. Bản thân bà là một nạn nhân. Bà có xét nghiệm độc chất gởi sang Đức, và một bệnh án. Bộ y tế mượn hồ sơ bệnh án và tự tiện mượn tên tuổi bà cho vụ kiện có thêm “ sức nặng”. Cá nhân bà không đồng ý. vì cho rằng vụ kiện bị chính trị hoá và ít có bằng chứng khoa học thuyết phục (Sau chiến tranh, bà thuyết phục bộ y tế nhanh chóng tiến hành nghiên cứu khoa học về hậu quả chất độc Da cam, nhưng đề nghị đó bị coi nhẹ. Nên sau đó bà không đồng ý tham gia vụ kiện. Các chính phủ thời kỳ “Đổi Mới”, nhiều cán bộ lão thành...cũng tôn trọng và tìm cách “ tranh thủ” bà.
Bs Dương Quỳnh Hoa dù được một giải thưởng quốc tế từ Mỹ- nhưng chưa bao giờ đặt chân lên đất Mỹ.
Tôi biết rõ sự việc vì tôi là bác sĩ làm việc nhiều năm tại Trung Tâm Nhi khoa, và được Cô Bảy tin tưởng kể cho nghe nhiều “ giai thoại”

fb Nguyen Vien


Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2019

ĐI TRONG MÙA BÃO

Mình dắt nhau đi qua mùa bão
Nước ngập thuyền trôi phố hoá sông
Đi cho quên hết vòng cơm áo
Và nợ nước non một tấm lòng

Mình dắt nhau đi xem nguồn cội
Đã mất hay còn trong sử xanh
Linh thiêng ngày cũ hay tội lỗi
Kẻo bản đồ xưa xoá rất nhanh

Nếu có yêu nhau trong mùa lễ
Đừng như Trọng Thủy tráo nỏ thần
Đừng gieo lông ngỗng hoà máu lệ
Và trút lên đầu lũ tuổi xanh

Đi cho vơi bớt niềm tủi hận
Để phố thưa dần những nỗi đau
Để mưa bão quét tan số phận
Chờ đợi mà chi ...sớm bạc đầu

TRẦN PHONG VŨ
31/8/19

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019

ĐẠO VÀ NGƯỜI.

Dân số Cao Miên hiện nay khoảng trên hai mươi triệu người. Người Khmer mười sáu triệu, người gốc Việt khoảng hai triệu rưỡi, người Hoa khoảng tám trăm ngàn, người Chăm sáu trăm ngàn, và có trên một trăm ngàn người dân tộc thiểu số như Tompuon, Bnong, Kreung, Kavet, Brau, Jarai… sống ở vùng núi phía Đông Bắc.

Dân Trung Quốc lục địa cũng đang tìm cách tràn vào đất Cao Miên, nhất là Nam Vang, Siam Reap và Sihanouk Ville.

Dân Chân Lạp (Cao Miên) chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ và theo đạo Hindu khá sớm. Nhưng sau này người Miên chuyển sang theo đạo Phật Tiểu thừa hay Nam tông/ Theravada Buddhism giống như người Thái, người Lào, người Miến. Người Hoa, người Việt đa số theo đạo Phật Đại thừa hay Bắc tông/ Mahayana Buddhism hay theo đạo Khổng/ Confucialism, đạo Lão/ Taoism. Người Chăm theo đạo Hồi. Người dân tộc thiểu số thì thờ thần núi, thần gió, thần sông…

Đạo Công giáo và Tin Lành có rất ít tín đồ ở Cao Miên. Trước năm 1975  ở Nam Vang có Nhà thờ Đức Bà/ Notre Dame Cathedral khá đẹp, bị hủy hoại nặng nề trong thời gian Khmer Đỏ 1975-1979. Thời Pháp thuộc, một thời gian khá dài giáo phận Nam Vang quản lý luôn các giáo xứ tại Nam bộ dọc sông Tiền, sông Hậu hay sát biên giới Việt- Miên. Hình như cũng quản lý luôn Thủ Dầu Một thì phải? Tuy vậy, số người Miên theo đạo Công giáo là không đáng kể.     

Tại Nam Bộ Việt Nam, đạo Công giáo có lịch sử lâu đời hơn và có số tín đồ đạo gốc đông đảo chiếm gần 20% dân số.  

Việc truyền đạo Phật từ Ấn Độ sang các nước Miến, Thái, Miên, Lào trải qua nhiều thế kỷ… thường diễn ra âm thầm sâu lắng chớ không ồn ả và gây nhiều tranh cải như việc truyền đạo Hồi hay truyền đạo Gia-tô. Các giáo sĩ ban đầu đến Khmer truyền đạo Hindu là chính, một số nhà sư Phật giáo theo để khất thực. Nhưng từ từ đạo Phật lại trở thành quốc giáo trong vương quốc Khmer kể từ thế kỷ 14, vì các vua cho rằng giáo lý đạo Phật “lành”.

Có người cho rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo, nó là một triết lý sống thụ động, nên việc truyền đạo Phật có nghĩa là âm thầm giáo dục chúng sinh hiểu rõ Tứ thánh đế “Khổ - Dục - Diệt - Đạo” để mà sống, chết và tái sinh một cách thanh thản nhẹ nhàng không vướng bận. Chất Thiện thể hiện trong giáo lý Phật giáo khá rõ nét, trong khi các tôn giáo khác nhắm vào sự qui thuận đấng toàn năng trước.

Đạo Phật không công nhận Thượng Đế, Tạo Hóa hay đấng có uy quyền toàn năng như các tôn giáo khác. Đạo Phật nhắm thẳng vào cái Thiện trong tinh thần cần gột rửa của con người…

Nói lý thuyết cho sang vậy thôi, chớ các nhà sư hay Phật tử của chúng ta bây giờ cũng đang có rất nhiều người đầy Dục, hay ưa thích gây ra nhiều điều ồn ào vui vẻ sao cho có scandals mới đã. Nhiều vị tu sĩ trong giai đoạn mới này chưa gột bỏ được hết hay không muốn gột bỏ Tham, Sân, Si. Hay là vì hệ thống tu tập Phật giáo ở nước ta còn dễ dãi quá, hay là vì do xã hội và chính quyền đang cưng chiều họ quá để đánh đổi lấy một cái gì đó không biết nữa.  Trên lý thuyết Việt Nam có khoảng 60% dân số theo Phật giáo, nhưng rất nhiều người trong số đó cả đời chưa bao giờ đến chùa. Chùa lớn nhỏ bây giờ tại Nam Bộ nhiều vô số kể...

Phật giáo như một quốc giáo ở Cao Miên thì khác. Chùa/ pagoda là nơi người ta dựa vào mà sống từ lúc mới sinh cho tới lúc chết, là nơi người ta học chữ và văn hóa (thường là cập một), học giáo lý hay tu tập Phật pháp một thời gian bắt buộc trước khi bước vào đời. Chùa cũng là nơi người ta gởi nắm tro tàn nhằm luân hồi qua một cuộc đời khác tốt lành hơn.

Với mấy triệu người Việt và người Hoa đang sinh sống ở Cao Miên thì có thêm Phật giáo Đại thừa. Chùa của người Miên thờ Phật Thích Ca, chùa người Việt thờ thêm Phật Quan Âm. Chùa người Hoa thờ Quan Công, Phật Bà… ở phía trong gian chính của chùa, còn tượng Phật Thích Ca thì thờ ngoài sân hay ở gian chùa phụ.         

Người Chăm ở Cao Miên theo đạo Hồi và thường sống tại các cù lao trên dòng Mekong. Tập trung lớn nhất là ở tỉnh Kampong Cham. Kampong Cham là quê hương của Hunsen quyền lực thời bây giờ, là tỉnh có dân số hai triệu người, nhiều thứ hai ở Cao Miên sau Nam Vang (ba triệu dân). Trong số trên nửa triệu người Chăm sống ở Cao Miên, có quá phân nửa sinh sống tại Kampong Cham. Người theo đạo Hồi có giáo đường/ mosque, nơi này đóng vai trò giống như chùa của người Miên vậy. Đó là nơi để cầu nguyện, học kinh Koran, học tiếng Ả Rập…  

Đất Nam Bộ đầu tiên là thuộc vương quốc Phù Nam/ Funan, theo truyền thuyết là một vương triều của một dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ sâu đậm và theo đạo Hindu, có một lãnh thổ khá rộng bao gồm Tây Nguyên và Nam bộ của Việt Nam, miền trung và miền nam nước Thái Lan, toàn bộ bán đảo Mã Lai kéo tới mũi Singapore… của thời bây giờ.

Vương quốc Phù Nam bất ngờ tàn lụi vào thế kỷ thứ bảy, dân cư biến mất, lãnh thổ bị sát nhập vào một nước chư hầu là Chân Lạp, tức đế quốc Khmer sau này. Phần đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam bộ của Việt Nam bây giờ) từ khi nước Phù Nam biến mất thì không còn người ở, cho tới thế kỷ mười lăm mười sáu mới có lác đác người Việt, người Miên, người Chăm… rồi người Hoa di cư tới khai hoang. Hai sắc dân có đóng góp quan trọng cho việc biến vùng đồng bằng sông Cửu Long từ một vùng hoang vu trở thành một vùng trồng trọt và chăn nuôi phát triển, có các thị trấn ven sông buôn bán tấp nập là người Việt và người Hoa.

Dựa vào luận điểm này, nhiều người Việt cho rằng vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam trước đây không phải là đất Cao Miên, không phải là vùng đất Thủy Chân Lạp hay Kampuchea Krom mà người Việt cưỡng chiếm của chính quyền Nam Vang bằng nhiều hình thức, mà nguyên thủy là đất đai của vương quốc Phù Nam.

Nhiều người Việt cũng cho rằng phần lãnh thổ to lớn được vẽ trên bản đồ Đế quốc Khmer hiện được treo trang trọng trong hoàng cung Nam Vang thực ra là bản đồ của vương quốc Phù Nam chớ không phải là bản đồ của nước Cao Miên thời cổ.

Dĩ nhiên, người Cao Miên luôn nghĩ ngược lại, họ luôn cho Nam Bộ Việt Nam, đảo Phú Quốc, vùng biển kéo dài từ Vũng Tàu tới Hà Tiên… chính là đất đai của tổ tiên họ.

Lãnh thổ, lãnh hải và biên cương quốc gia từ thời xưa cũ cho tới bây giờ vẫn luôn là những tranh chấp đôi khi rất khó giải quyết giữa các quốc gia láng giềng như Trung Quốc với Ấn Độ, Trung Quốc với Việt Nam, Cao Miên với Thái Lan, Cao Miên với Việt Nam… Vùng đồng bằng sông Cửu Long mà người Cao Miên gọi là Hạ Kampuchea (Kampuchea Krom) cùng với đảo Phú Quốc luôn bị các người Cao Miên theo chủ nghĩa dân tộc cho là vùng đất mà người Việt đã cưỡng chiếm của chính quyền Nam Vang dưới nhiều hình thức khác nhau.

Vào các thế kỷ trước đây, biên giới giữa các quốc gia thường không được xác định rõ, nhất là biên giới giữa các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mekong như Việt, Miên, Lào, Thái, Miến… do biên giới luôn luôn thay đổi sau các cuộc chiến chinh phạt, bên chinh phạt thắng đương nhiên mở rộng được lãnh thổ và biên giới khi họ không muốn lui quân về.

Hay nói đúng hơn, diện tích lãnh thổ của một quốc gia sẽ thay đổi theo sự biến đổi mạnh hay yếu của trung tâm quyền lực địa chính trị. Thí dụ như khi vương quốc Phù Nam mạnh nhất, thì lãnh thổ của nó bao trùm hết các vùng phía nam bán đảo Đông Dương và nguyên bán đảo Mã Lai, khi Phù Nam biến mất thì Đế quốc Khmer thế chỗ cho tới thế kỷ 16, sau đó tới Xiêm La và Việt Nam có phần lãnh thổ lớn nhất. Chămpa thì bây giờ không còn lãnh thổ và biên giới, nó chính thức hoàn toàn bị hòa nhập với Việt Nam từ nửa đầu thế kỷ 19 dưới thời Minh Mạng. Nhưng thực tế, nước Champa đã bị mất từ giữa thế kỷ 18 rồi.

Lãnh thổ, biên giới thay đổi… nhưng sự hiện hữu cộng sinh của các sắc dân Miên, Việt, Hoa, Chăm và các tôn giáo của họ sẽ không thay đổi trên đất Cao Miên.

18/07/2017.
Bài viết của Momentary Notes

Vũ thấy hay copy lại để tham khảo và chia sẽ

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2019

CẨN THẬN KHI ĐI MÁY BAY ĐƯỜNG DÀI


Sưu tầm

Chỉ một tích tắc sau khi chiếc máy bay khổng lồ Boeing 747 đáp xuống phi trường quốc tế Frankfurt của Đức Quốc, trực thăng cứu cấp đã chờ sẵn và bốc ngay Cô Emma C. 28 tuổi, vừa đi nghỉ hè tại Sydney trở về, vào bệnh viện cấp cứu. Tất cả mọi cố gắng của toán cấp cứu và bác sĩ, y tá bệnh viện không thể cải tử hoàn sinh người nữ hành khách trẻ tuổi bất hạnh này.

Lý do tử vong: cô bị nhồi máu vào hai buồng phổi (Lungenembolie – embolie pulmonaire – plumonary embolism) do cục máu đông của hai cẳng chân dội ngược lên. Một cơn bệnh chết người gần như 100% mặc dù trình độ phát triển y học hiện đại.
Đưa ra một đề tài đang tranh luận là làm thế nào để phòng ngừa một sự thay đổi của sự đông máu trong cơ thể con người đưa đến việc đột tử.
– Phòng ngừa và làm chận đứng sự đông máu đang di chuyển trong mạch máu
– Điều hành cơ chế tạo cục máu đông

Để dễ hiểu rõ vấn đề, bài viết được thu gọn trong một số câu vấn đáp cụ thể để giải thích những dữ kiện nêu trên như sau:

*1- Một chuyến bay đường xa nguy hiểm như thế nào?

Có một điều chắc chắn là thường một chuyến bay đường dài vì sự ngồi bất động trong suốt cuộc hành trình là nguyên nhân đưa đến sự đông máu ở phần hạ chi. Bao nhiêu hành khách trong số hàng triệu triệu lữ hành hằng năm khắp năm châu bốn biển gặp phải nghịch cảnh nói trên, chúng ta không thể tìm ra được một con số chính xác. Những phi trường quốc tế London, Paris, Lyon, Sydney hay Frankfurt đã phúc trình qua nhiều báo cáo y khoa nhưng sự thật vẫn còn nằm trong vòng bí mật.

Lý do chính là tai biến do thành hình cục máu đông ở phần dưới cơ thể không phát hiện sớm khi máy bay đáp xuống mặt đất, mà triệu chứng lâm sàng của tai biến mạch máu lại thường xảy ra khoảng 14 ngày sau đó. Do đó thống kê của các sân bay quốc tế không thể mang ra ánh sáng những con số chính xác được. Ngoài ra còn có những bản báo cáo thiếu dữ kiện không đem lại lợi ích chung cho khách hàng… Vậy điểm rõ ràng mà mỗi hành khách trước khi lên máy bay cần phải biết: những chuyến bay trên những đoạn đường xa, thời gian càng dài là yếu tố chắc chắn tạo nên sự đông máu mà chúng ta không ai có thể lường trước được.

*2- Sự nguy hiểm do đâu mà ra?

Chúng ta chỉ biết rõ là chức năng đưa đến sự đông máu thường lại xảy ra do chỗ ngồi quá hẹp của hạng bình dân (Economy-Class) . Chính vì sự kiện ngẫu nhiên này nên người ta đã không ngần ngại và đã nhầm lẫn khi viết: triệu chứng lâm sàng của sự đông máu ở hạng du lịch bình dân (Economy-Class- Syndrom). Sự nhận xét trên không đúng 100% vì ngay cả những hành khách hạng nhất, hạng thương gia cũng bị tai biến mạch máu nêu trên. Nguyên nhân được chứng minh rõ ràng là biến chứng tạo nên do sự tạo thành cục máu nhỏ rồi phát triển và lan dần rộng ra do các cục máu tụ kết hợp lại.

Hiện tượng máu tụ được hiểu biết là do là thiếu cử động trong chuyến bay và 2 cẳng chân xếp lại do tư thế ngồi trên máy bay. Hai nhận xét này thực ra rất đúng cho các hành khách máy bay ở hạng bình dân, do chỗ ngồi khá chật chội.

*3 -Hành khách di chuyển bằng xe buýt, tàu hoả và xe hơi trên chặng đường dài có gặp phải tai biến tuần hoàn trên không?

Có, hành khách sử dụng các phương tiện du lịch vừa kể trên cũng có thể xảy ra tai biến tạo thành cục máu rồi đưa đến đông máu tĩnh mạch ở hạ chi. Tuy nhiên một điểm phải được chú ý thêm nữa là trên máy bay, khí thông trong buồng hành khách rất khô. Ví dụ trong chuyến bay, quý vị để một chén cơm nóng thì chỉ cần 1 tiếng đồng hồ sau cơm sẽ khô như chén cơm chiên. Tác động “phụ” của không khí khô khan trong buồng hành khách sẽ “hút thêm” nước từ các mạch máu của cơ thể bạn trong hành trình, sự kiện “máu cô lại” chính là yếu tố quyết định nguyên nhân bắt đầu xuất hiện những cục máu đông nhỏ nằm ở phần hạ chi của con người.

Ngoài sự khô ráo, áp lực khí trong buồng máy bay cũng giảm xuống tạo thêm một yếu tố “rút nước” trong máu rồi tích lũy vào lớp mô. Đó cũng là một lý do đưa đến máu “khô” rồi… cục máu đông sẽ dễ thành hình. Nguy hiểm hơn nữa là trong chuyến bay, hành khách theo thói quen lại thích uống rượu ‘không mất tiền’. Chất rượu sẽ làm mạch máu nở rộng thêm ra; máu lưu hành trong cơ thể chảy chậm hơn cho nên hổ trợ mạnh mẽ cho sự đông máu được nhanh hơn. Sự di chuyển bằng máy bay như vậy nguy hiểm hai lần nhiều hơn bằng xe búyt hay ô tô. Di chuyển bằng xe lửa được xem như là an toàn hơn hết.

* 4-Nhóm hành khách nào có nhiều nguy cơ tai biến mạch máu?

Tất cả hành khách đi trên các chuyến bay đều có thể gặp phải, bất luận già hay trẻ. Tuy nhiên những hành khách cao niên, phái nữ thì khả năng bị tai biến dễ gặp hơn… Ngay cả những lực sĩ cũng bị tai biến mạch máu, như trường hợp 3 lực sĩ trong phái đoàn Anh Quốc đã bị tai biến đông máu trên đường đến tham dự thế vận hội Sydney trong năm vừa qua. Ngoài ra vẫn có một số hành khách tương đối “dễ gặp phải” tai biến hơn so với những nhóm người khác…

* 5- Những ai thuộc nhóm người này?

Nhóm hành khách nằm trong diện sau đây rất có thể bị tai biến mạch máu:

a.- Mập
b.- Các bà dùng thuốc thuốc ngừa thai.
c.- Những hành khách trên 50 tuổi
d.- Các bệnh nhân có tình trạng yếu tim
e.- Trong gia đình có thân nhân đã bị tai biến mạch máu
g.- Một vài loại thuốc an thần trong một vài điều kiện sẽ khích động tai biến mạch máu
h.- Hút thuốc lá

Hành khách nào mang trong người càng nhiều yếu tố nêu trên thì dễ gặp phải tai biến hơn.

*6- Trường hợp nào tai biến mạch máu sẽ dễ dàng khởi động?

Nằm trong diện nguy hiểm này gồm có:

a.- Đã có lần bị đông cục máu trước đây
b.- Bị nhiễu loạn chu trình đông máu trong cơ thể mà người ta tìm thấy qua khám nghiệm cục máu đông sau tai biến
c.- Đã bị tai biến mạch máu não và bị liệt một phần của cơ thể
d.- Đang bị bó bột do chấn thương gãy xương
e.- Vừa bị mổ xong nhất là sau các trường hợp mổ bụng
f.- Sản phụ vừa mới sinh xong
g.- Bướu trong người, bướu ung thư thường khuyến khích sự đông máu

*7- Hành khách nên chuẩn bị như thế nào?

. Hành khách nên đi lui tới trong buồng máy càng nhiều càng tốt
. Khi ngồi thì nên cử động bàn chân & cẳng chân tuồng như đang lái xe hơi (đạp thắng, nhả ga…)
. Nên tham gia chương trình tập thể dục được truyền hình trong chuyến bay (Flyrobic) – hiệu quả rất khả quan.

Một điểm nên chú ý nữa là:

. Không bỏ hành lý dưới chân.
. Không hút thuốc.

Điều quan trọng đáng lưu ý :

. Không uống rượu nhiều,

. Phải uống thật nhiều nước để bù lại sự mất nước.

*8-Thế nào là uống thật nhiều nước?

Tuỳ theo nhu cầu đòi hỏi của cơ thể và cường độ khát nước; nên uống trà, nước trái cây và nước suối.

*9- Hành khách trong nhóm “dễ” bị tai biến phải chuẩn bị như thế nào?

Trong trường hợp không cấm dùng thuốc có chứa Acetylsalicylsaure thì hành khách nên uống một viên Aspirin 100mg trước khi lên máy bay. Nhóm hành khách này nên ngồi ngoài lối đi hoặc cạnh chỗ lối thoát nạn để có thể cử động dễ dàng. Theo kinh nghiệm, nên mang thêm vớ chống sự tạo thành cục máu đông.

*10 – Còn các hành khách thuộc nhóm “nguy hiểm” thì phải xử trí như thế nào.

Nhóm người thuộc diện “nguy hiểm” thì phải nên suy nghĩ tìm một phương tiện chuyên chở an toàn hơn; tuy nhiên nếu phải xử dụng máy bay thì bắt buộc gặp bác sĩ gia đình trước khi lên đường, thường thì được chích loại thuốc loãng máu “Heparin” hai tiếng đồng hồ trước khi máy bay cất cánh. Thuốc “Heparin” có công hiệu trong vòng 24 tiếng đồng hồ.

Chuẩn bị thuốc men vẫn chưa đủ, hành khách thuộc nhóm “nguy hiểm” này phải tuân theo đúng những lời hướng dẩn đã nêu trên trong suốt hành trình.

*11- Thời gian và khí hậu thay đổi có kéo thêm sự khó khăn không?

Quá đúng như vậy. Vì giờ giấc bị thay đổi cho nên thời điểm cần phải uống thuốc cũng bị ảnh hưởng theo. Bệnh đái đường là nhóm người bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nhóm bệnh nhân dùng thuốc loãng máu “Macumar” không bị nhiễu loạn mạnh vì hiện tại thì thuốc “Macumar” được chia đều cho 7 ngày, nhóm hành khách trên thường không gặp phải biến chứng. Những chuyến du hành đến miền nhiệt đới hay về Việt-Nam thì tai biến đông máu thường dễ gặp phải hơn, vì khí hậu nóng và ẩm tại chỗ ngay sau khi đáp xuống phi trường địa phương dễ “khuyến khích” tai biến tạo cục máu đông. Một điểm nữa cũng phải cần lưu ý là các chuyến bay ban đêm dễ bị tai biến nhiều hơn những chuyến bay ban ngày vì ban đêm cơ thể thường ít hoạt động hơn.

*12- Phía các hãng máy bay quốc tế nên thay đổi thế nào để giảm bớt tai biến đông máu?

Các hãng máy bay quốc tế chuyên dành cho các “hành trình dài” phải tôn trọng các điều kiện căn bản tối thiểu để bảo vệ sức khỏe và sinh mạng hành khách. Chúng tôi thiết nghĩ:

. Quảng cáo ưu điểm các bít tất có sức “co dãn mạnh” để ôm sát vào cẳng chân chống việc ứ máu phần hạ chi và cho phép bán trên máy bay.
. Các hành khách “mập” phải có những “ghế bành ngồi” phù hợp với “thân hình đồ sộ” của khách hàng.
.. Và khách hàng chuẩn bị “túi tiền” cho vé máy bay có tất cả điều kiện thích hợp để có sự bảo đảm về sức khoẻ trong chuyến bay và cho một cuộc sống chắc chắn sau khi đáp xuống phi đạo.

Dr. Tôn Thất Hứa

*Dr. Tôn-Thất Hứa
. 1976 – Y sĩ chuyên khoa giải phẫu tổng quát và lồng ngực
. 1981 – Y sĩ chuyên khoa gây mê và hồi sức (Anesthesiologie and Critical Care Medicine – Anesthesie et Réanimation)
. 1990 – Bác sĩ cấp cứu và hồi sinh (Notarzt – Emergency physician – Médecin en service d’ urgence);
. 1997 – (Leitender Notarzt – Emergency catastrophy physician – Médecin catastrophe) .
. Bác sĩ cấp cứu tỉnh Würzburg và vùng phụ cận.
. Thành viên cứu cấp máy bay tiểu bang Bayern.

Thứ Năm, 27 tháng 6, 2019

ĐỜI BUỒN

Hôm nay, cậu bé con một người bạn cũ của tôi tự sát...

Không một dấu hiệu gì báo trước. Không một lời từ biệt. Không một câu trăng trối. Tầng tầng lớp lớp những dằn vặt bủa vây lấy người ở lại.

Rằng lý do tại sao?

Có lẽ không một ai hiểu được tại sao một thằng bé 16 tuổi chọn cách từ bỏ cuộc đời này và ra đi mãi mãi.

Trong cuốn Nhật ký năm 14, cậu bé viết, “Năm lớp 6 mình có mối tình đầu tiên, mẹ phát hiện việc mình thích N, mẹ đọc trộm những mẩu thư ngăn bàn N viết, mẹ đến tận nhà N và yêu cầu bố mẹ N xem lại cách dạy con. Mình ko còn nhớ nổi mối tình đầu của mình kết thúc ra sao. Chỉ biết sau đấy 2 đứa không bao giờ nhìn mặt nhau nữa dù còn học chung lớp đến trung học. Mãi sau này mẹ hỏi tại sao mình xa cách mẹ vậy, tại sao ko tâm sự với mẹ? Vì sao? Vì mẹ đã biết quá nhiều, nên không bao giờ mẹ được quyền biết thêm bất cứ điều gì nữa cả.”

Sau đám tang, trên đường về, tôi không khỏi suy nghĩ mông lung.

Những đứa trẻ tự sát, mọi người nói chúng ngu dại, nhưng tôi lại thấy chúng già trước cả chúng ta – những người cha người mẹ tưởng mình trưởng thành và luôn đúng! Chúng không bồng bột đâu. Để có thể đi đến quyết định đau đớn thế, chắc hẳn chúng phải chuẩn bị từ rất rất lâu, tỉ mỉ và cặn kẽ, từ tốn nhưng quyết liệt.

Cuối cùng thì những con người như bọn mình đang làm gì cuộc đời của nhau?

Bạn có dám chắc rằng con của bạn đang sống hạnh phúc như nó mong muốn?

Mỗi ngày bạn có hỏi nó rằng, hôm nay có gì khiến con buồn, và có gì khiến con vui?

Đứa cháu gái con chị tôi, tôi từng chứng kiến nó hỏi mẹ “Mẹ không có câu nào khác để hỏi con à?” Khi chị tôi nói “Nay đi học được mấy điểm hả con?”.

Đành rằng ta luôn cho con những điều tốt đẹp nhất, nhưng ta có bao giờ quan tâm điều con thực sự cần?

Tôi không biết phải nghĩ gì nữa. Mọi thứ như một vòng luẩn quẩn, như đám mây đen bám rịt trong lòng. Nặng nề và bí bách.

Đêm nằm ôm con, tôi hỏi chồng, “Anh này, sau này anh muốn con làm nghề gì? Anh muốn con yêu người thế nào?”. Chồng tôi nói, “làm gì hay yêu ai chẳng được em. Miễn là nó vui!”

Phải! Tôi sẽ chỉ dạy con cách suy nghĩ đúng đắn, cách bảo vệ bản thân, cách phản ứng, cách đối đáp, cách đối nhân xử thế, cách tiếp thu kiến thức trong cuộc đời. Tôi sẽ không dạy nó phải chơi với người thế này, yêu người thế kia, học gì, làm gì…

Tôi sẽ lắng nghe con trước. Nếu nó thật sự muốn tôi khuyên nhủ, tôi sẽ khuyên.

Tôi hỏi chồng thêm, nếu lỡ con chúng mình sau này vì lý do khách quan mà hư đốn, anh có hận nó không? Hận vì công sinh thành nuôi nấng rồi nó quay lưng với mình?

Chồng tôi hỏi lại tôi, “Ô nó yêu cầu mình đẻ nó ra à mà mình lại đặt áp lực lên nó thế? Anh không thích kể công. Anh tin con mình chẳng bao giờ hư cả. Nhưng nếu nó có làm mình thất vọng thì cũng đành chấp nhận. Nó đã dành cho anh cả tuổi thơ của nó, cho anh trải nghiệm sự vui vẻ hạnh phúc chưa từng có. Anh biết ơn nó! Không trông mong không cần gì nhiều!”

Ừ thì làm cha mẹ ai chẳng đặt lên vai con những ước mơ hoài bão nào đó. Nhưng hãy gửi gắm, chứ đừng ép buộc.

Tôi chỉ mong con tôi đủ mạnh mẽ trên đời. Sống như nhánh cỏ bị vùi dập sau cơn giông vẫn vươn mình trước gió.

Hãy quên đi việc ép con phải làm thế này thế kia.

Xin hãy dạy con sự thẳng thắn, dạy con cách diễn đạt con nghĩ thế nào, bản thân con tự nói ra được rằng con muốn gì, và nếu được cho phép, con sẽ làm gì.

Rồi ta sẽ mỉm cười tự nhủ, tại sao ta không nhận ra điều ấy sớm hơn?

p/s: Chúng ta nên nhận ra sớm hơn!!
---
Hoang Vi Le

____

FB Hoàng Nguyên Vũ





Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2019

SUỐT ĐỜI GẶP MAY


Buổi sáng đi làm, Chị nhìn thấy bánh trước của chiếc xe máy bị xẹp hoàn toàn, Chị nghĩ:
“May quá, nếu xe xẹp lốp trên đường cao tốc thì không biết hậu quả sẽ ra sao”.
Vì phải dắt xe đi thay săm nên chị đến công ty trễ mất 15 phút. Bà phó phòng nói rằng Giám đốc cho gọi Chị. Chị nghĩ:

“Nếu giám đốc khiển trách về việc đi làm trễ thì mình sẽ thành khẩn xin lỗi chứ không thanh minh”.

Nhưng không có một lời khiển trách nào cả. Sếp gặp Chị để mong Chị thông cảm rằng, lẽ ra hôm nay Chị phải nhận được quyết định tăng lương, vì đã đến hạn, nhưng vì mục tiêu chống lạm phát nên chính phủ đã cắt giảm nhiều hạng mục đầu tư công, trong đó có một dự án của công ty. Do vậy, tình hình tài chính của công ty có gặp khó khăn nên Chị và một số người đáng lẽ được tăng lương đợt này nhưng phải lùi lại một thời gian và sẽ được đền bù vào kỳ tăng lương sau.

Chị về phòng làm việc với một niềm vui nho nhỏ:
“Vẫn là may. Nhà nước cắt giảm đầu tư công hàng chục nghìn tỷ đồng, nhiều doanh nghiệp lao đao, phải giảm lương của cán bộ công nhân viên, thậm chí có đơn vị phải cắt giảm nhân lực. Mình không bị giảm lương, lại còn được đền bù vào kỳ tăng lương sau, thế là may. Cái may thứ hai là mình được làm việc với một ông Giám đốc tài ba và rất tử tế”.
Buổi chiều, Chị mua hải sản, làm một bữa cơm thịnh soạn để cả nhà ăn mừng ba cái may trong ngày của Chị.

🌾Ngày hôm sau, trên đường đi làm về, Chồng chị bị một gã ngổ ngáo chạy xe đánh võng va vào xe của anh ấy, khiến chồng chị bị tai nạn, xây xát ở chân và tay. Khi nghe chồng kể chuyện này, Chị nghĩ:
“Thế là quá may, bị tai nạn giao thông mà chỉ xây xát nhẹ chứ không phải vào viện”. Và chị lại làm một bữa để ăn mừng cái may của gia đình mình.

Chị xin nghỉ việc ở công ty, ra lập doanh nghiệp riêng. Thương trường như chiến trường. Ban đầu vất vả lắm. Ngược xuôi chèo lái con thuyền công ty. Nhưng chị luôn giữ một tâm thái lạc quan tích cực như vậy. Ở đâu và bao giờ, nụ cười cũng luôn nở trên môi chị và nhờ thế, trong giao tiếp chị luôn chiếm được cảm tình của người khác và chị làm việc gì cũng hanh thông. Dần dà, công ty làm ăn khấm khá. Chị có dư của ăn của để.

Bữa Chị mua căn biệt thự, nhờ người bạn làm nghề điện nước đến lắp đặt toàn bộ hệ thống chiếu sáng trong và ngoài nhà. Chẳng ngờ, người bạn sinh lòng tham, lắp cho chị toàn bóng đèn hàng chợ nhưng tính với chị giá trên trời. Được dăm bữa, bóng đèn dở chứng, cái sáng cái tối. Ánh sáng chuyển màu, cái màu trắng cái màu vàng. Chị gọi ông bạn vàng kia thì mất hút. Chị chẳng lấy làm buồn. Chị bảo: "Cũng may không mua đèn của hắn để lắp cho showroom mà chị sắp khai trương. May mà có cậu em Thần Đèn tình cờ xuất hiện và thiết kế lại toàn bộ ánh sáng cho nhà chị. Nhà chị đẹp hơn, lung linh hơn rồi".

🌾Đến một ngày, Chị phát hiện chồng có bồ. Anh chị chia tay. Chị nói với anh lúc đứng ở cổng tòa: "Thôi vậy cũng may. May mà biết sớm để rồi kết thúc sớm. May mà con mình cũng đã đủ lớn để hiểu chuyện của bố mẹ nó và không oán trách ai cả".

🍁🍁🍁Như thế đó, chị là một người suốt đời gặp may. Đó không chỉ là một lối tư duy tích cực mà còn là một lối sống lạc quan và nhờ lối sống này mà những người sống quanh chị không bao giờ phải nghe tiếng thở dài.

Giờ đây tuy đã gần 50 tuổi rồi nhưng trông chị vẫn trẻ trung như tuổi 30.

Một lối sống lạc quan và tích cực là cái mà chúng ta hoàn toàn có thể tự tạo ra được. Và đó còn là sự biểu hiện của một con người có trí tuệ và đạo đức.

Và chỉ những ai làm được điều đó thì mới xứng đáng để được hưởng bình an và hạnh phúc trong cuộc sống.

NGƯỜI HẠNH PHÚC KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG TRONG HOÀN CẢNH THUẬN LỢI MÀ LÀ NGƯỜI CÓ THÁI ĐỘ TÍCH CỰC TRONG BẤT KÌ HOÀN CẢNH NÀO.

(ST)

BỐN “CHUYỆN LẠ” Ở NHẬT


✅ 1. Trung thực
Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao? Các bác tài sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.
Sự trung thực của người Nhật, in đậm nét ở những “mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka... cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách.
Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào. Người Nhật tự hào khẳng định động từ “ăn cắp vặt” gần như đã biến mất trong từ điển. Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 - 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.
✅ 2. “No noise” - không ồn
Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật. Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường. Osaka bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn 1 hòn đảo nhân tạo để làm sân bay rộng hơn 500ha ngay trên biển. Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.
Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa khuyến mãi, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng. Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh. Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.
✅ 3. Nhân bản
Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch? Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn để phần 5-10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.
✅ 4. Bình đẳng
Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng. Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường. Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.
Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, quan chức cho thấy một nước Nhật không khoảng cách. Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường. Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.
Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng.
Ở Nhật, nội trợ là một nghề. Hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ. Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các chế độ y như một người đi làm. Về già, vẫn hưởng đầy đủ lương hưu. Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.

(Sưu tầm)

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2019

TÔ THÙY YÊN

Vĩnh biệt Tô Thùy Yên, một cựu học sinh Petrus Ký, một trong 5 nhà thơ nhóm Sáng Tạo, sáng lập phong trào thơ Tự Do của miền Nam. Tình cờ đọc trên FB bài viết về thơ Tô Thùy Yên của một cô giáo miền Bắc, thật cảm động và sâu sắc, tôi xin trân trọng giới thiệu với các bạn FB của tôi. 

Cô giáo là một người miền Bắc sanh năm 1974, lại yêu thơ miền Nam nồng nàn và sâu sắc. Hay quá. Đọc bài của Cô Thảo Dân, tôi tin tưởng nhiều hơn về sự hoà hợp hòa giải dân tộc, trước sau gì cũng đến, có hay không có Cộng Sản. Đây là một đoạn cô trích thơ Tô Thùy Yên trong bài thơ "Ta Về", sau khi được Cộng Sản thả về, người tù cải tạo trở về sau 10 năm:

"Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá vẫn ngậm ngùi thay..."

" Xưa giờ, tôi vẫn tự nhận mình mê thơ Nam hơn thơ Bắc. Bởi lẽ, với riêng tôi, thơ là tiếng nói thốt lên tự đáy lòng, không cần phiên dịch, không cần triết lý, không cần gò bó trong những trúc trắc diễm lệ câu từ. Thơ càng chau chuốt, bóng bẩy thì, hình như, cái tình càng ơ hờ, nhạt nhẽo. Thơ cũng không phải nơi để gửi gắm triết lý. Làm việc đó, văn xuôi và triết học tốt hơn nhiều. Thơ để cảm, để yêu, để nơi trái tim gặp gỡ trái tim. Vậy mà có một ngoại lệ, nhà thơ tôi yêu thích trong âm thầm, khá lâu bền, lại là người được giới phê bình nhận xét “Người Nam nhưng mang hồn thơ Bắc”: Nhà thơ Tô Thùy Yên.

Thật ra, trong cảm nhận của tôi, thơ Tô Thùy Yên có cả Nam, Trung và Bắc, có đủ triết, sử, đời. Nếu chọn đại diện duy nhất thơ cho một nước Việt Nam thống nhất, tôi trân trọng đề cử Tô Thùy Yên. Trong cái hệ lụy chung của Hiệp định Geneve chia đôi đất nước, thì nó cũng để lại một trái đẹp lạ lùng, đó là sự pha trộn, làm phong phú thêm ngôn ngữ, văn hóa miền Nam, và dường như, Tô Thùy Yên là thi nhân đặc biệt bắt được nhịp thở thời ông sống và nhập cả vào thơ điệu tâm hồn Bắc Trung Nam, làm nên một vóc dáng thơ vạm vỡ, uy nghi, lạ lẫm trong dòng chảy văn chương dân tộc với ngôn ngữ vừa dân dã vừa bác học, vừa bình dị vừa sang trọng, không lẫn vào ai khác.

Nếu nói thơ Chế Lan Viên độc đáo ở siêu hình, thì thơ Tô Thùy Yên siêu hình không kém. Nếu nói sự tráng lệ của câu chữ trong thơ Yến Lan, sự cổ điển của Quách Tấn, tìm trong thơ Tô Thùy Yên, đủ cả. Cảm hứng về thiện nhiên, vũ trụ trong thơ Huy Cận, Tô Thùy Yên không thua, chưa muốn nói còn rợn ngợp hơn. Về lối viết cách tân của Trần Dần hay sự tài hoa của Quang Dũng, Tô Thùy Yên có nhiều câu không hề kém cạnh. Thơ Tô Thùy Yên mang phong vị thơ Bắc ở cách diễn đạt văn chương, ở lớp lang từ ngữ ước lệ, tượng trưng của Đường luật, ở cách dùng ca dao độc đáo, duyên dáng. Tôi gọi Tô Thùy Yên là Nhà thơ không quê hương. Ông sinh ra ở Gia Định nhưng quê hương ông là Việt Nam. Thơ ông nói với ta như thế.

Thơ Tô Thùy Yên thể hiện một sự trái ngược khá lạ lùng. Ông là một trong 5 thành viên của nhóm Sáng Tạo (mà duy nhất ông là người Nam), một nhóm thơ mong muốn thổi vào thi ca Saigon khi đó một sự cách tân cả về nội dung lẫn hình thức, nhưng trong những sáng tác của ông, ta thấy ông lại dùng tấm áo gấm cổ điển để gói bọc nội dung siêu hình, giàu tính triết học, vô cùng hiện đại. Bài thơ Cánh đồng con ngựa chuyến tàu viết năm 1956 khá tân kỳ. Đặt vào hoàn cảnh quốc gia Việt Nam Cộng Hòa khi đó, nó mang tính thời sự rất cao nhưng vẫn không bớt chất lãng mạn, bay bổng. Bài thơ mở ra bức tranh động với hình ảnh cánh đồng một màu xanh cây cỏ nhưng không bằng phẳng êm xuôi mà có “gò nổng cao” và “thung lũng sâu”, như ẩn dụ về đường đời đầy thử thách. Trên nền màu xanh của cỏ cây, chú ngựa nâu đang rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu, còn đoàn tàu vẫn vô tri vô giác chạy mau, chạy mau, chạy mau để rồi rốt cuộc ngựa thua. Gục đầu, gục đầu, gục đầu ngã lăn và để lại trên tấm thảm xanh trải dài hút mắt một vết nâu.

Dường như, trong hai hình ảnh sóng đôi con ngựa và toa tàu không chỉ là cuộc phân tranh giữa “thảo mộc phương Đông và Tây phương cơ giới” như nhà phê bình Đặng Tiến nhận xét, mà dường như, ý thơ còn muốn mở ra điều sâu kín hơn: Con tàu văn minh rất hiện đại nhưng không có hồn vía, không có sự sống, không có cảm xúc và vẫn chịu sự điều khiển của con người. Con ngựa (phải chăng là ẩn dụ về con người?), tuy phải trải qua những cung đường gập ghềnh, thử thách, nhưng luôn được sống trong những giây phút thăng hoa, có thể thắng thua trên đường đời nhưng luôn được làm chủ cảm xúc, luôn được là mình. Bài thơ là khúc hoan ca về cái tôi kiêu hãnh. Hoặc nữa, nó còn là một lời dự báo, một âu lo ngấm ngầm trong tiềm thức: Một ngày nào đó, nền văn minh công nghiệp sẽ tàn phá tất cả, bỏ lại loài người bị tước bỏ môi trường sống, không còn được thung dung như chú ngựa nâu an nhiên thuộc về cội nguồn thiên nhiên cây cỏ đồng hoang?

Nhưng, trong phạm vi một bài viết ngắn, không thể ôm đồm. Chỉ xin mạo muội chia sẻ một số suy cảm sơ sài về bản trường thi lộng lẫy trong kho tàng văn chương Việt Nam, được nhiều người ca tụng: TA VỀ.

TA VỀ- bản trường thi nhiều lớp lang, cảnh trí: cảnh trí đất trời, cảnh trí con người và cảnh trí của cõi lòng thê thiết. Mỗi khổ thơ tách riêng có thể thành một bài thất ngôn tứ tuyệt độc lập, chặt chẽ, hoàn hảo. Điệp ngữ “Ta về” được dùng như chiếc chìa khóa mở ra nội tâm nhà thơ từ lúc đặt chân xuống đường lớn, trả lại thân phận tự do. Bài thơ là tiếng lòng của một người, cũng là tiếng lòng của hàng ngàn người miền Nam bị đày ải khắp các nhà tù từ Nam chí Bắc, từ rừng hoang heo hút, hiểm trở đến những nơi đồng chua nước mặn… Đọc bài thơ, ta hiểu về lịch sử, tâm sử, chứ không chỉ là lời giãi bày khi trở lại quê nhà, thậm chí nhóm câu thơ tình ái trong bài cũng gợi về dòng lệ tràn của bao nhiêu thân phận thiếu phụ chờ chồng từ những trại cải tạo sau 1975. Không riêng bài thơ này, mà trong toàn bộ sáng tác của Tô Thùy Yên, dường như ông luôn là người chép sử, luận triết bằng thơ. Ta gặp ở đây lối kết cấu nghệ thuật như trong thơ cổ. Trang đời mới mở ra sau cánh cổng nhà tù: Trở về, qua truông qua phá, gặp người quen cũ trên đường, gặp cha mẹ, gặp vợ con, đi thăm làng xóm, nhớ người còn người mất, tìm lại chính mình những ngày tháng cũ, đan xen là những suy tưởng để tìm lại mình và phá bỏ những xiềng xích tâm hồn 10 năm dằng dặc.

“Mười năm”, không phải quãng thời gian dài nhất mà một người tù VNCH phải trải qua. Lâu nhất phải kể đên Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Thiếu tướng Đỗ Kế Giai, Thiếu tướng Trần Quang Khôi, Thiếu tướng Phạm Ngọc Sang, Thiếu tướng Phạm Duy Tất, Thiếu tướng Lê Văn Thân, Thiếu tướng Mạch Văn Trường… đều bị tù từ tháng 5/1975- 1992, tức là 17 năm tù. Những người bị tù ít nhất cũng vài ba năm. Bản thân Tô Thùy Yên có tổng cộng 13 năm trong tù. Nhưng lần đầu, cũng là lần lâu nhất: 10 năm. Như vậy, nên hiểu “mười năm” vừa chỉ thời gian có thật, vừa là khái niệm ẩn dụ, tròn một thập kỷ, đủ để thương hải tang điền, đủ cho người thay đổi và đời thay đổi.

Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá vẫn ngậm ngùi thay.

“Ta về” được nhắc đi nhắc lại 16 lần, không phải tiếng reo vui, không phải lời báo tin mừng mà cả bài thơ nặng trĩu trầm ngâm suy tưởng. Ta về là kết thúc một phần đời đau khổ. Ta về để mở ra chương đời khác chưa biết có đỡ bi thảm hơn không. Ta về với những giấc mơ mười năm xóa trắng. Ta về mà như tiếng địch ngân xót xa sầu thảm của tráng sĩ thất trận qua sông.

Tôi hình dung ra một con người quần nâu, áo vải phai màu bởi nắng mưa xứ Bắc, thập thững đi cô độc trên đường. Đường vắng. Người gầy, bóng đổ. Cả bóng lẫn người đều câm lặng. Một cuộc trở về ngậm ngùi, không người thân đưa tiễn, không ai biết mà đón đợi. Ca dao có câu Mình về em chẳng cho về/ Em níu vạt áo em đề câu thơ. Phút chia tay, bút mực đâu mà đề thơ lên áo. Là dòng lệ của nàng vẽ lên áo một chữ Tình đó thôi. Đề thơ chỉ là cái cớ để bên nhau lâu thêm một chút. Cuộc tiễn đưa dùng dằng, lưu luyến. Nhưng với thân phận người tù cải tạo khi đó, còn sống mà trở về đã là việc thần kỳ, được rời bỏ địa ngục trần gian phút nào là biết mình được sống phút đó, còn có mong chi ai đề thơ vạt áo. Mười năm mong mỏi.

Vậy mà sao khi trở về lại “đau mềm phế phủ” đau thấu tâm can, đến nỗi đá cũng còn thay người ngậm ngùi rơi lệ? Bởi nhớ lại những đọa đày khó giấy bút nào tả xiết? Là nhớ những đoạn trường mẹ già, vợ dại con thơ truân chuyên đường xa dặm thẳm tàu xe cả tuần lễ mới tới nơi thăm nom, để dành cho một chút thức ăn từ những chắt chiu tằn tiện? Hay đau đứt ruột bởi những huynh đệ chi binh chia ngọt xẻ bùi, bảo bọc nhau qua ngày tháng khó, giờ chỉ là những nấm mồ hoang cô quạnh nằm lại nơi đất khách?

Trong bài “Tàu đêm” tái hiện cảnh đoàn tàu chở những người tù miền Nam đi đày biệt xứ, Tô Thùy Yên viết những dòng rền vang, chát chúa như lời trăng trối tuyệt vọng khi đoàn tàu như trong một cơn giông lửa, giữa đêm chạy về nơi vô định, về nơi cuối trời, và với nhiều thân phận, đó là chuyến đi về nơi cuối đời. Khi chạy qua những xóm làng tối đen im lìm của miền Bắc, những bến cảng, nhà kho, người tù nhớ mẹ, nhớ em, nhớ phố phường hoa lệ…, hình dung mình như một thứ sinh vật khổ đau bị nghiến dưới đường ray lịch sử vô tình, người tù tuyệt vọng thốt lên những tiếng kêu bi thảm để mong loài người mê sảng trong thứ chủ nghĩa giáo điều tăm tối đang im lìm kia, thức dậy để biết có những đồng bào, đồng loại đang còn có linh hồn, để cùng nhau sống.

Tàu ơi hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dậy địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối
Loài người hãy thức, thức cùng nhau

Ngược lại, khi trở về, chỉ là những thanh âm im lặng. Một mình một bóng. Và khi trở về, người tù hồi tưởng lại đoạn đời lao tù.

Vĩnh biệt ta- mười- năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

Khổ thơ này là lời đoạn tuyệt 10 năm xa loài người, 10 năm sống trong âm ty địa ngục nhưng, ta vẫn bắt gặp tâm trạng kiêu hãnh kín đáo của kẻ chiến bại. Tựa vào rừng mà tồn tại. Câm lặng như rừng để giữ gìn chất Người dù cho bị đày đọa đến suy thoái cả hình hài, hoang dã như thời tiền sử. Thân bại nhưng vẫn âm thầm sống, mãnh liệt sống để danh không liệt.

Có lẽ, khổ thơ này chỉ nên đọc và cảm nhận, không cần bình luận gì nhiều về thân phận người tù. Để hiểu thêm, xin giới thiệu một vài khổ thơ trong bài “Mùa Hạn” nói về cảnh ngộ người tù, ông viết năm 1979 ở Nghệ An nhưng phải tới 15 năm sau nó mới được in trong “Thơ Tuyển”, năm 1995 ở Mỹ.

Ở đây địa ngục chín tầng sâu
Cả giống nòi im lặng gục đầu
Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt,
Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau.
Bước tới, chân không đè đá sắc
Vai trần chín rạn gánh oan khiên
Nước khe, cơm độn, thân tàn rạc
Sống chẳng khôn, cầu được thác thiêng.

Tô Thùy Yên đã chép lại một thời kỳ tăm tối mà ông và chiến hữu đã trải qua, thời kỳ kinh khủng, giữa thời đại văn minh mà con người bị đày đọa như súc vật đến nỗi, chung xiềng mà không dám nhìn mặt, nghiến đến chết cứng hàm răng, mắt ứa máu, vì thương bạn, thương mình, vì thân phận bị cầm tù đau xót, vì mang nỗi hận của hùm thiêng khi đã sa cơ, chỉ tồn tại với nước khe, cơm độn, nắng cháy, cát bay, rừng khô rụm, sông hồ nẻ, đá nứt, muông thú không còn, khoai sắn cũng bị dân làng đào sạch, thú hóa con người đến mức cầu được chết đi vì sống nhục nhằn hơn đau khổ hơn là chết.

Để tồn tại và vượt thoát, có người tù còn nói câu để đời: “Con gì nhúc nhích được là ăn hết”. Đó vừa là bản năng sống, vừa là bản lĩnh người. A.I.Solzhenitsyn có tác phẩm Tầng đầu địa ngục đoạt giải Nobel Văn chương năm 1970, tái hiện cuộc sống của những nhà khoa học hàng đầu của Liên xô bị giam cầm như trong địa ngục dưới thời Stalin, khiến cả thế giới bàng hoàng về sự độc ác mà con người phải trải qua. Nhưng đó vẫn là Tầng đầu, tầng cao nhất mà Dante có thể nghĩ ra trong Thần khúc để dành chỗ cho khoa học gia, những người dám chống lại cả Chúa, còn những người tù trong thơ Tô Thùy Yên, thì đó là Tầng thứ 9. Đủ cho người đọc lạnh người.

Hành trình trở về qua truông qua phá, lặng lẽ, im lìm, trời câm đất nín, đời im lìm, đóng váng. Người tù trở về, là người tự do trong thân phận cá chậu chim lồng đâu còn có thể hót lên bài ca cũ. Nhưng may mắn, họ không bị chai sạn tâm hồn, vẫn có thể “ngẩn ngơ trông trời đất cũ” cho dù đó không phải sự “ngẩn ngơ” lãng mạn tìm thi hứng, mà đó là nỗi xót xa cho phận người, phận mình, xót xa cho nỗi hưng phế suy vong của lịch sử.

Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu.

Thời gian mười năm được nhắc lại, nhẹ như hơi thở mà chất chứa bao điều. Thế giới già đi, quê hương tan nát sau bao mùa bom đạn, quê hương tàn tạ sau mỗi chuyển dời. Đất bạc màu bởi người chết, người bị tù đày, người đi lên vùng kinh tế mới? Chỉ biết quê hương không còn là quê cũ trù phú, xanh tươi, sum vầy. Điệp ngữ “đất bạc màu” nghe như tiếng thở dài nuối tiếc, xót xa, bất lực. Trước sau, tấm lòng kẻ sĩ vẫn là nỗi trăn trở khi đặt những bước chân đầu tiên trở lại sau mười năm xa vắng.

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió chuyển mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy ghi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.

Có lẽ ám ảnh bởi không gian vũ trụ siêu hình, nên trong thơ Tô Thùy Yên hay nhắc về các loài chim, dường như nó trở thành một hệ thống thi pháp khi ông diễn tả về thời gian, không gian: Con chim thần thoại mắt khoen sâu/ Giật mình như đã ngàn năm ngủ/ Giữ bụi lông, cất khản tiếng gào (Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc) Ở đâu còn bóng chim huyền diệu/ Hót gọi tiền thân ta tái sinh (Mùa hạn) Núi xa chim giục giã hoàng hôn (Tưởng tượng ta về nơi Bản Trạch) Con chim nào hớt hải kêu van (Bất tận nỗi đời hung hãn đó) Con chim động giấc gào cô đơn (Trường Sa hành) Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc (Mòn gót chân sương nắng tháng năm) Con chim lạc bạn kêu vườn rộng (Vườn hạ), Giữ khuya có tiếng chim ai oán (Nỗi đợi) Thương nhớ nghe chừng sông biển cạn/ Nghe chừng gãy những cánh chim bay (Tháng Chạp buồn)…

Hình ảnh “bóng chim qua trễ” như một ám ảnh cô độc, lẻ bầy, cũng là chỉ sự trễ muộn của đời người, đi với “gió chuyển mùa” càng gợi sự trống vắng. Tất cả đều đã hư hao, muộn màng, tất cả đã lỡ thời theo ngọn gió heo may của tuổi chớm đông. Để rồi còn lại, vẫn là nỗi trăn trở khi những vọng động của lịch sử sẽ ngưng ngơi, rơi vào thinh không im lặng, mười năm, bao nỗi bi thương của dịch chuyển thời thế, bao đau khổ của núi lở sông bồi, đau thương, ly tán. Đã ai ghi…vừa là câu hỏi, vừa là lời tự sự mà lại như một tiếng than thầm. Mười năm ấy, cổ lục chưa từng có sử gia biên chép. Biết bao nhiêu máu lệ, ghi mấy cho vừa. Phải vậy chăng, mà Tô Thùy Yên tình nguyện làm người chép sử bằng thơ?

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.

Đây là một khổ thơ có thể cắt riêng thành một bài tứ tuyêt tài hoa, chứa đựng những triết lý nhân sinh sâu sắc. Người xưa dạy, rộng lớn nhất là đại dương, rộng hơn đại dương là bầu trời, rộng lớn hơn cả bầu trời chính là lòng người. Tô Thùy Yên đã giải phóng mình khỏi nỗi hận thù, thấm nhuần giáo lý từ bi hỉ xả của nhà Phật, để lòng mình sánh ngang với trời đất, lắng nghe và cảm tạ lượng đất trời. Vì mình từ tâm nên mới nhìn thấu đất trời từ tâm. Ai đã từng trải qua những cảnh ngộ mà nhà thơ từng trải, sẽ hiểu rằng, được sống, được trở về từ nơi đã từng đày đọa mình “thành vượn cổ sơ”, là may mắn đến nhường nào. Chính vì thế, cuộc đời dù cay đắng vẫn đáng yêu đáng sống, khi vượt qua địa ngục trần gian càng biết trân quý những vẻ đẹp quanh mình. Ngắm một đóa hoa nở cũng đủ coi như ân điển.

Thấp thoáng từ những câu thơ tài hoa là nụ cười an nhiên của người đã qua kiếp nạn, thấm đẫm tinh thần của Lão, Trang, nhìn thấy Đạo ngay từ cánh hoa, ngọn cỏ. Tâm thiện mở ra tận cùng mới cảm nhận được sự từ tâm vô lượng của vũ trụ. Tô Thùy Yên đã chạm tới cái vô hạn của nhân chi sơ tính bổn thiện. Không phải tới khi trải qua khổ nạn, Tô Thùy Yên mới thấu lẽ vô vi. Trong thời kỳ chiến tranh, ông đã có những vần thơ xót xa cho người lính phía bên kia chiến tuyến vừa sốt rét vừa đói lả nhưng vẫn xích lời nguyền sinh Bắc tử Nam để rồi từ đó bật lên khát khao nhân bản, giá như cả hai đều gom góp sức lại thì mặt đất này khác đến bao nhiêu. Ngay thời điểm chiến tranh đang hồi ác liệt, mà có sự bao dung, vượt lên trên chiến tuyến đó, còn là gì nếu không phải tâm thế của người vượt thoát giỏi các giới hạn, mà cụ thể trong hoàn cảnh này, là vượt lên hận thù ý thức hệ để nhìn xa hơn cho tương lai dân tộc, bởi nhân thức được sự hữu hạn của kiếp người?

Khổ thơ tiếp theo bừng thức như ánh sáng chói lòa trong một giấc mơ:

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

Ngập tràn không khí cổ thi của một thời chinh chiến. Nhà nhà, người người lên đường theo tiếng trống trận, theo điệu kèn xuất binh hùng tráng. Nô nức ra đi nô nức lên đường. Đến cả con ngựa đá cũng không cầm lòng được, cũng biết sang sông. Những câu thơ linh hoạt hẳn lên, bừng sáng, giàu màu sắc, hình ảnh, âm thanh, gợi tôi nhớ tới lời sấm Ngựa đá sang sông của cụ Trạng Trình, sông đổi dòng để ngựa đá qua bờ bên kia, thời cuộc thay đổi. Phải chăng, đó chính là ước mộng của một chiến binh kiêu dũng, vừa thoát ngục tù từ bên kia chiến tuyến đã mơ tìm lại nước, ước mơ tìm được đấng minh quân để tạo dựng cơ đồ? Không hiểu sao, đọc khổ thơ này, trong trí óc tôi lại cứ hiện lên hình ảnh bao con người có vẻ ngoài lầm lũi, cam chịu, nhẫn nại đang ngày đêm âm thầm cho những cuộc vượt thoát. Bằng đường biển, đến con ngựa đá cũng sang sông, cũng muốn ra đi. Giấc mộng mãi mãi chẳng viên thành, chỉ còn lại thực tại ê chề cay đắng nên lời thơ như có máu lệ sa xuống đầu ngọn bút.

Ta về như lá rơi về cội… đoàn tụ, xum vầy, nhân quần tề tựu quanh bếp lửa. Bởi mười năm mới được trở lại nhà. Giang hồ có kẻ “một tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà”, huống chi người mười năm mới được ngồi bên bếp lửa đang độ cuối thu. Chén rượu hồng đây rưới xuống. Cho bạn. Cho thù. Cho những ai còn sống và đã khuất. Cho chiến hữu còn âm u đất lạ quê người trong cảnh lao tù, cho cả những người đã tự chọn cho mình một con đường, bỏ nước ra đi. Tha thứ và làm lại từ đầu cho được thành người, không để kẻ nào vùi dập. Ngôn từ ngậm ngùi, hình ảnh đẹp bi tráng, không khí cổ thi vẫn đậm đặc.

Ta về như hạt sương trên cỏ… hạt sương đẹp, khúc xạ cả mặt trời, trong sáng, tinh khôi nhưng lại ngắn ngủi, phù du đến vô thường, nên người ta hay ví sự ngắn ngủi của kiếp người, của cuộc đời như là sương trắng. Hạt sương trên cỏ chính là bước đi của thời gian, ngắn ngủi hữu hạn đặt cạnh vô cùng vô tận để rồi chợt nhận ra satna bên cạnh vĩnh hằng. Tuy mong manh nhưng lại chứa sức sống mãnh liệt của không gian, thời gian, đa diện, đa sắc, phải vì thế chăng mà ở câu thơ sau tác giả nhắc tới sinh, dị, diệt trong Đạo Phật để tìm cho thấy cái tâm thế an nhiên tự tại. Đời người như gió như sương. Đời người như chớp mắt. Đặt cạnh số phận dân tộc, nó càng mong manh, vô thường. Ai rồi cũng hư vô. Vậy mà hạt sương bé bỏng vẫn phải tội tình. Hãy liên hệ với thực tại khi đó của thân phận những người tù vừa ở trại cải tạo về để cảm nhận tâm thế chấp nhận hoàn cảnh và lời than thầm của nhân vật trữ tình.

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh…
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên…

Một loạt hình ảnh tỉ dụ với những hình ảnh chỉ sự hữu hạn, mong manh, hư vô, đẹp đến mơ hồ.

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi.

Có bùa thiêng nào kể lại được nỗi nhà mười năm xa vắng? Gỗ đá không thức dậy. Nhưng cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Từng mái, vách, tường xiêu, nhện giăng, khói ám, mối xông, giậu nghiêng cổng đổ, thềm cỏ um tùm, khách cũ không còn ai, người mất, người tù, người biệt tích… há chẳng phải cảnh vật đang kể lại một câu chuyện vô ngôn của cảnh nhà đơn chiếc, cha mẹ già như đĩa dầu hao, vợ lặn lội chạy ăn từng bữa nuôi con chờ chồng, những đứa con lớn lên không có bóng dáng cha đó sao? Đoạn thơ nói về cảnh vật mà người đọc hình dung ra bao biến cải bể dâu, nhớ tới câu thơ của Nguyễn Gia Thiều: “Phong trần đến cả sơn khê/ Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”. Chỉ cần nhắc một lần để rồi phải sống. Hãy nhớ, bên cạnh yếu tố triết học, những ám ảnh không gian, thời gian, cảm thức sâu sắc về lẽ biến dịch, về sự tuần hoàn, thơ Tô Thùy Yên chính là thi sử, là những trang đời âm thầm máu lệ của ông và những đồng hữu thời hậu chiến, và vượt lên tất cả là khí phách là thái độ sống của một người quân tử, không trói buộc lòng mình vào hận thù, khắc hận thù vào trong dạ nhưng không để nó làm vẩn đục đời sống tinh thần.

Những câu thơ dành cho người vợ tào khang khiến người đọc không khỏi xúc động.

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

Ca dao Nam Bộ có câu: Chờ anh em quá sức chờ/ Chờ cho rau mác lên bờ trổ bông. Rau mác cùng họ với lục bình, nhưng lá nhọn như hình lưỡi mác. Hoa cũng tim tím như lục bình nhưng bông nhỏ và ít hoa hơn. Nếu lục bình nổi lênh đênh trên mặt sông, kênh rạch, thời gian sinh trưởng ngắn thì rau mác có thể sống nhiều năm, mọc cố định ở đồng bưng, về mùa nước nổi, rau mác theo nước vươn lên, cọng trắng phau, mập tròn, có thể bứt làm thức ăn. Rau mác luôn mọc chòi lên bờ, như ước muốn thoát khỏi thân phận cây dại. Rau mác trổ bông quanh năm, vậy mà cô gái đã trách chàng trai để mình “quá sức chờ” lối nói thậm xưng chỉ sự ngóng trông đằng đẵng. Vậy mà 10 năm đợi chờ, bao nhiêu mùa rau mác trổ bông? Đủ thấy tấm lòng người vợ trung trinh với tiếng lòng đồng vọng. Em vẫn chung thủy đợi chờ, như lẽ tất nhiên, như điều bình dị, như lòng biển mênh mông nhẫn nại.

Có người cho rằng, đây là so sánh thiếu tế nhị, thiếu mềm mại và không thích đáng. Kể ra không phải không có lý. Biển vĩ đại, sóng ngầm, bão tố, phong ba…đặt người đàn bà trong so sánh với biển, dữ dội quá, tuồng như không giống với những phẩm chất dịu hiền, thương khó mặc định của đàn bà Việt. Nhưng hãy đọc lại bao trang viết về những người vợ có chồng đi cải tạo, vừa lặng thầm chăm lo cha mẹ, vừa như con gà mẹ xù cánh che chở nuôi dạy con khỏi sự cô lập, kỳ thị của người đời, vừa thu vén chắt bóp thăm chồng đường xa vạn dặm, không chỉ đối mặt với bao khó khăn về vật chất, mà cái khổ lớn nhất là sự chịu đựng, o ép, đe dọa về tinh thần, thì không so sánh nào sâu sắc, hàm ơn bằng hình ảnh người vợ chờ chồng như biển chờ sông.

Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm đã nhạt mờ…
…Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao.

Những câu thơ này đặc phong vị Bắc. Nó làm người đọc liên tưởng tới câu ca dao thao thiết Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn/ Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ và Đêm qua ra đứng bờ ao/ Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. Tôi không biết khi viết những điển tích, những chỉ dấu Bắc kỳ tuyệt đẹp này, ông đã đọc những câu ca dao Bắc này chưa, nếu chưa, thì quả thực chất Bắc đã ngấm vào hồn thơ ông hồn nhiên, nhuần nhị như năm xưa Tướng quân Trần Nhật Duật lên miền ngược uống rượu với người Man, thuần thục đến mức được coi như gã người Man chính hiệu.

Tôi đặc biệt thích khổ thơ:

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.

Tại sao lại là “bóng ma hờn tủi”? Là bởi vì bị bức tử về tinh thần, bị o ép về mặt thân xác, đã thành một con ma người tồn tại ở cái buổi nghi kị, tố giác, căm thù và độc địa. Nhưng nhân vật trữ tình trong thơ Tô Thùy Yên, luôn luôn cảm nhận rõ cảnh ngộ, thân phận, và có phần nào an phận, nhưng tuyệt đối không cúi đầu. Vượt lên tất cả nghịch cảnh là sự tiếc nuối, xót xa, thương yêu, bao dung và tha thứ. Buộc phải “chết”, bị ép vào tuyệt lộ nhưng vẫn không bao giờ đánh mất mình. Mười năm ta vẫn cứ là ta. Điềm đạm, ngang tàng, uy vũ bất năng khuất. Nếu ở khổ thơ trên, một bông hoa nở cũng đủ để nhà thơ cúi đầu cảm tạ, thì tới đây, ông lại “thương từng phế liệu”, những dấu tích thời chiến, dấu tích của cuộc đời khác, thuở được làm người.

Một mối tương liên khi nhìn những mảnh phế liệu mà nghĩ tới phận mình, mình giờ đây có khác gì mảnh phế liệu thành vô danh ngay trên mảnh vườn nhà. Nhìn thấy ở mỗi sự vật đều có linh hồn, để mà thương lấy mình, để mà sống cho nhân ái khoan hòa. Tâm thế đó dường như là một chất riêng của thơ Tô Thùy Yên. Ông vượt thoát các giới hạn, không phải để lảng tránh, mà để đối mặt, nhìn rõ bản chất, không để hận thù mà để thứ tha. Bởi thế, tôi cho rằng, thơ Tô Thùy Yên còn giàu Phật tính, không chỉ riêng trong bài thơ này.

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.

Từ ngàn xưa, trong tâm thức văn hóa Á Đông, Hạc được ví như chim thiêng, là linh vật bất tử trong thế giới loài chim. Hạc có sải cánh dài rộng, bay vút trời cao, vượt muôn trùng mây, sánh với người ưu tú có năng lượng sống dồi dào, mạnh mẽ đương đầu khó khăn sóng gió, lại trong sạch thuần khiết giống bậc quân tử, tiếng kêu thánh thót của nhân tài. Do đó, Hạc được xem như biểu tượng của trí tuệ và cốt cách thanh cao, vượt khỏi đời tầm thường tục lụy. Đây là khổ thơ xứng làm cái kết cho bản trường thi lộng lẫy, thể hiện sự song hành giữa cái hữu hạn bên cạnh cái vô hạn, giữa thanh cao và tục lụy, giữa buông xả và luyến thương. Đời là cõi tạm, còn ta chỉ như loài chim quý trót nặng lòng thương nhớ trần gian một thuở làm người mà về lại bên đời, để rồi vỗ cánh. Thế thì những tù đầy, oan trái còn xảy ra thêm vài lần nữa cũng có gì đáng sợ. Trong tầm vòng giới hạn của kiếp người, Tô Thùy Yên đã làm được điều mà ông hằng trăn trở. Dù đời người hữu hạn, vũ trụ vô cùng, nhưng bằng những thi phẩm để lại cho đời, ông xứng là con chim hạc bay qua miền đất này và cất tiếng lòng bi tráng, thống thiết, thánh thót, chạm tới tận cùng những cung bậc cảm xúc.

TA VỀ- Đâu chỉ là về với quê hương bản quán mà nó còn là cuộc trở về với bản thể, trở về với chính mình để truy tìm những câu hỏi lớn: Rốt cuộc, sau bao nhiêu thống khổ, ta là ai? Ta là cánh hạc vàng bay trong chiều thương nhớ để dâng đời khúc hát của một đời ly loạn, không phải để hận thù, chia biệt, mà để loài người biết thương xót nhau thêm.

Trong lần trả lời phỏng vấn của báo Người Việt gần đây, Tô Thùy Yên có kể lại một kỷ niệm rằng, thập niên 90, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong khi thu xếp để chờ đi Mỹ, khi đến nhà chơi có nói: “Đất nước này rồi sẽ phải trải qua những biến động lịch sử tan tác kinh hồn chẳng thể cản tránh được, tôi ra đi xa lánh, anh còn ở lại, anh hoặc là ai đó sẽ phải viết một bài thơ mà chất liệu là núi xương sông máu, là hàng triệu cái xác chết”. May mắn, tới bây giờ thi nhân Việt Nam chưa ai phải viết ra tác phẩm như Thanh Tâm Tuyền dự đoán, nhưng với khối lượng sáng tác đáng nể, Tô Thùy Yên đã tạc lên một Cõi Người, một Cõi Phật, một Cõi Lão, Trang, một Thời Đại đặc biệt bằng thi ca, và như thế, trong mắt những người yêu thơ Tô Thùy Yên, thì ông mãi mãi MỘT BÓNG TRÊN ĐƯỜNG LỚN."