Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2023

ĐỌC VÀ BÌNH LỊCH SỬ

Hãy bình sử với tư cách là người tử tế,tôn trọng sự thực,sòng phẳng và tiến bộ 

Anh tôn trọng người khác để nhận được sự tôn trọng ngược lại 

Nhiều người đang bụm miệng vì một ông tiến sĩ kinh tế nhận định về lịch sử Miền Nam,ông ta cho rằng Miền Nam là "tinh hoa Bắc Việt tụ lại ,dồn vào theo dòng khai phá Phương Nam" 

Thiệt là...! Bậu không hề hiểu câu “Ăn theo thuở, ở theo thời” gì hết 

Dân gian Bắc Hà có câu: 

"L.. bà bà tưởng l.. ai
Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền" 

Tự nhận mình là "người liêm chính" và giảng moral ,nói về năng lực,đạo đức và khơi về dòng họ mà đại bác thụt không tới 

Lý thuyết là cùng một dân tộc, cùng chữ viết, cùng tiếng nói ,điều đó không ai phủ nhận 

Nhưng trời ơi! Thực tế Nam và Bắc hoàn toàn khác nhau về cách sống,tư duy,văn hóa,ẩm thực.Bây giờ nói về "bà con" thì có lẽ chắc không ai còn nhớ đâu

Máu pha nhiều quá

Thí dụ như người Mỹ,nếu người Anh nói người Mỹ là người Anh thì dân Huê Kỳ sẽ cười vô mặt liền 

Cũng như danh xưng "Việt kiều",người VN ở hải ngoại đời đầu,khi mà họ còn sanh đẻ và lớn lên ở VN rồi di tản ra hải ngoại thì còn dính chữ Việt Nam.Nhưng qua thế hệ thứ hai,thứ ba,thứ tư thì con cháu đã thành người Mỹ,người Úc,người Châu Âu rồi,nói nó là người VN thì nó cười vô mặt.Nhìn bà con rồi kêu cháu hãy làm nghĩa vụ gửi tiền về VN cho họ hàng là cái không bao giờ có vì nó không thể có trách nhiệm như cha mẹ nó được,đây là sự thực 

Miền Bắc từng có 1000 năm Bắc thuộc,khi đó người Tàu di cư qua hàng hà sa số đặng cai trị,nhưng người Tàu không làm sao đồng hóa Lạc Việt được vì tinh thần dân quá cứng cỏi,thậm chí người Tàu di cư qua ở vài đời thành người Việt cũng đòi độc lập,dính mẫu hệ cả dòng

Nếu nhìn họ hàng thì Bắc Kinh giờ làm như Putin với Ukraine,nói rằng người VN ở Miền Bắc giờ là con cháu của "tinh hoa người Hoa Hạ xưa" thì nghe có vui không?

Mà ngẫm lại Bắc và Nam như âm với dương vậy,thời tiết Nam nóng thì Bắc lạnh và Bắc luôn dính cái lòng thòng từ Trung Hoa,bên đó có cái gì Bắc có cái đó,rõ nhứt là sĩ diện hảo và rất thích làm "anh cả" 

Vũ trụ là một dòng sông dài,cả một quá trình lịch sử cũng dài,con người qua bao khúc nhoi ,thăng trầm có đủ hết ,Nam Kỳ và Bắc Kỳ cũng vậy

Mà ngộ!

Rất nhiều người cứ thắc mắc, tại sao kêu Nam Kỳ,Trung Kỳ, dân hai xứ này cười hề hề, không để ý gì hết.Còn kêu người Bắc nào là Bắc Kỳ, nếu người Bắc di dân vào nam 1954, hay gọi là Bắc 54 thì cũng không sao, nhưng Bắc 75, Bắc đang ở phên dậu thì đa số họ sẽ đưng đửng lên như bị con gì cắn, rồi chửi người kêu là phân biệt vùng miền, chửi người kêu là miệt thị

Kỳ chỉ là đất một cõi mà ta?Thành đô một nước còn có tên là "Kinh Kỳ" đó thôi 

Trong lịch sử Việt Nam ta có một cái huyện được sử Nguyễn ghi chép là "Qúy huyện" ,trong đó có một ngoại trang gọi là "Qúy hương" 

Vùng đất đó là Gia Miêu ngoại trang thuộc tổng Thượng Bạn huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa,là nơi phát tích của vương triều Nguyễn 

Là nơi quê nhà lão tướng Nguyễn Kim đã trung hưng thành công nhà Lê Trung Hưng 

Cũng là quê của Quận Công Nguyễn Hoàng ra đi trấn thủ xứ Thuận Hóa năm 1558 ,ông về Phương Nam, tiên khởi hùng mạnh khởi lập lên xứ Đàng Trong với 9 chúa, 13 vua 

Xin lật lịch sử vào những năm 1558-1600 

Chúng ta nghe giai thoại rằng chúa Nguyễn Hoàng vì "nghe lời" Trạng Trình "Hoành sơn nhứt đái, vạn đại dung thân" nên xuôi về Nam

Tôi thì đọc giai thoại cho vui thôi,cái đám sĩ phu Bắc Hà rất thích đặt giai thoại,thiệt ra là tầm nhìn chánh trị của chính chúa Nguyễn Hoàng mà thôi,ông nhìn xa ra cái hướng mà dung thân ,phát triển khi anh rể Trịnh Kiểm đã nuốt hết cơ nghiệp nhà vợ rồi giết anh trai Nguyễn Uông,sẽ giết tới Nguyễn Hoàng 

Đi vô vùng "Ô châu ác địa", "Biên viễn xa xôi" là một cuộc thử thách thực sự chứ không phải đi du lịch chơi chơi như thời nay.Cái duyên này là Trời định,là Thiên Mệnh,để Việt tộc phát triển dài ra cương thổ 

Năm 1558 Nguyễn Hoàng ôm theo nhiều anh em, bà con ,tùy tùng quê ở Tống Sơn 

Ta phải kể ra ba ông lớn có tiếng trong đời Nguyễn Hoàng mà lịch sử ghi là: Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị và Mạc Cảnh Huống

Con cháu Nguyễn Ư Dĩ sau này đổi sang họ Nguyễn Khoa,với Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Khoa Đăng 

Dòng thứ hai là họ Tống của ông Tống Phước Trị.Tống Phước Trị là người mang họ Tống của chính "Qúy huyện " Tống Sơn .Khi Nguyễn Hoàng vào Nam thì ông đã có danh phận chức tước ngang hàng với chúa Nguyễn Hoàng ,tước Luân Quận Công,làm Trấn thủ Thuận Hóa trước cả Nguyễn Hoàng 

Dòng Tống Phước Trị là đệ nhị công thần của chúa Nguyễn Hoàng 

Ông Tống Phước Trị là tổ của hai ông Tiền Hiền Tống Phước Hiệp, Tống Phước Hòa là bậc danh tướng ,có công gìn giữ Vĩnh Long và Sa Đéc 

Đất Trung Kỳ là đất của Chàm. Người Việt kêu người Champa là người Cham, Chăm, Chàm, Chiêm, Thổ, Mọi , Hời

Cham Pa gồm 5 tiểu quốc là:

- Indrapura (vùng Quảng Bình, Quảng Trị - tương đương với lãnh thổ Lâm Ấp) 
- Amaravati (vùng Quảng Nam, Thừa Thiên) 
- Vijaya (Bình Ðịnh) 
- Kauthara (Phú Yên, Khánh Hòa)
- Panduranga (Phan Rang, Phan Rí)

Vua Chàm Chế Bồng Nga đánh Đại Việt 12 lần.Từ 1371 đến 1383, quân Chiêm Thành 4 lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390, lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư, thì Chế Bồng Nga bị tử trận.Cái chết vô cùng lãng nhách , thằng đầy tớ phản chủ qua bên Việt chỉ chiếc thuyền Chế Bồng Nga có một vết sơn xanh nhỏ và Trần Khắc Chân chỉ tập trung hỏa lực bắn vô thuyền nầy là Chế Bồng Nga tử trận

Người Chàm rất xui khi lập quốc cạnh người Việt vì nằm ngán đường của người Việt .Bắc là Tàu,tây là dãy Trường Sơn cao ngút,đông là biển,chỉ còn hướng Nam là con đường sanh tồn của Việt tộc.Nên Chàm bị vong quốc 

Nhưng Chàm vẫn còn đâu đây trong huyết quản người Miền Trung

Khi ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng Thống VNCH nhiều người già nói sấm ám chỉ có một ngày một người có máu Chàm làm vua người Việt 

Nhiều người hỏi,vậy dân Chàm hồi xưa ở VN đi đâu mất tiêu hết vậy?

Chiến tranh,loạn lạc,có những vụ đánh nhau ,kể cả tận diệt,nhưng người Việt không thể nào giết hết dân tộc này như nhiều người kết tội,dân tộc này không có nhỏ

Thực ra người Chàm nào chịu ở lại định cư chung với người Việt đã bị đồng hóa,pha máu từ từ,lần hồi thành người Việt hết ráo.Trước tiên đàn ông Việt lấy vợ Chàm,cái phụ hệ của Việt khuất phục mẫu hệ Chàm ,rồi đàn bà Việt lấy chồng Chàm,cái “mẫu hệ” ngầm trong gia đình Việt cũng khuất phục luôn dân tộc này

Nói về đồng hóa bằng hôn nhân thì dân Tàu cũng quỳ lạy dân Việt chúng ta.Người Việt không nề hà,đụng đâu lấy đó ,Chàm quất tuốt,Miên không tha,Tàu quất sạch 

Người Trung mang nhiều máu Chàm trong người.Người Trung có da ngăm đen,vai ngang,mặt vuông, tóc dợn sóng, mắt sâu, má cao,mắt một mí , mũi cao, môi dầy, miệng kín. Rồi cái âm Trung lơ lớ với mô,tê,răng,rứa,hè...ảnh hưởng rõ rệt người Chàm 

Một nhúm Chàm ở Phan Rang ,Phan Thiết do co cụm,sống tách biệt nên vẫn còn bản sắc

Thế hệ đầu tiên ngoài Bắc  vô Trung của Nguyễn Hoàng thành dân Trung Kỳ đã phai lợt từ từ "gốc gác",tới những thế hệ sau thì họ đã là người Đàng Trong,khác hoàn toàn tâm tánh,ăn ở,văn hóa Đàng Ngoài 

Chưa kể lại đối nghịch nhau về chánh trị 

Lịch sử Việt Nam ta có cuộc Trịnh,Nguyễn phân tranh rất nhiều giai thoại thú vị 

Khi họ Nguyễn tạo ra xứ Đàng Trong ly khai vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài thì hiểu rằng người ở phía Nam đã muốn độc lập,cắt đứt với người phía Bắc

Trịnh ,Nguyễn đánh nhau từ 1627 tới 1672 với 7 lần đánh nhau với đại quân 

Trong bảy lần đó quân Trịnh chủ động tấn công đánh quân Nguyễn tới sáu lần,quân Nguyễn chỉ chủ dộng tấn công quân Trịnh trong lần giao tranh thứ năm (1655-1660)

Họ Trịnh dựa vua Lê,người Bắc rất lơ láo ,họ chuyên lấy vua Lê ra làm bình phong cho sự chính danh của họ khiến quân Đàng Trong rất ghét 

Tương truyền trong một trận đánh,hai bên dàn trận rồi mà Đàng Ngoài còn chơi trò lấy lông gà làm lịnh tiễn “vua Lê” 

Một ông quan Bắc chạy xe ngựa có cờ lộng uy nghi ra giữa trận tay giơ cao tờ chiếu la lớn”Chiếu chỉ vua Lê tới đây,quân họ Nguyễn nghênh đón” 

Thoáng ngỡ ngàng , quan bên Nguyễn thấy rằng hai bên đang đánh nhau thì mang chiếu chỉ vua Lê ra làm chi,Đàng Trong đã thực tế là đất của chúa Nguyễn 

Quan Bắc vẫn gân cổ, là thần tử vua Lê thì phải nhận chiếu 

Rốt cuộc súng của quân Nguyễn chỉa thẳng vô ông quan cầm chiếu vua Lê  ngay giữa trận 

Nhớ tới Quốc Phụ xứ Đàng Trong Đào Duy Từ nửa đêm ôm bè chuối vượt sông giới tuyến vô Nam giúp chúa Nguyễn giữ đất Đàng Trong độc lập 

Đào Duy Từ hay Nguyễn Hoàng là bỏ xứ ra đi rồi,bỏ luôn rồi,kiểu "Người ra đi đầu không ngoảnh lại"

Thuận Quảng là đất chó ăn đá gà ăn muối lúc bấy giờ .Kinh tế thấp kém,đất đai rộng nhưng hoang vu,lam sơn chướng khí,lại bị người Chàm đánh miết để đòi lại ,vô đó chỉ có nước chết mà Nguyễn Hoàng tồn tại được là cái không ai ngờ 

Bản thân Nguyễn Hoàng từ năm 1600 đã từng đốt quán trọ,hạ nhục sứ họ Trịnh là Lê Nghĩa Trạch để phản kháng.Sự bất mãn ,phân ly và phản kháng đã từ từ phát diện 

Rốt cuộc, Phú Xuân (Huế) từ năm 1687 thành kinh đô của Đàng Trong 

Chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài.Đàng Ngoài năm nào cũng có đói, thời chúa Trinh các năm 1557, 1559, 1570, 1571, 1572, 1577 hàng loạt trận đói xảy ra 

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các vị sau đó còn làm bộ nhún nhường thần tử,song tới đời Võ vương Nguyễn Phước Khoát (1714-1765 ) mở ra một thời kỳ mới

Năm 1744 lên ngôi vương xưng là Võ Vương cho đúc ấn Quốc Vương với cương vực từ sông Gianh tới Cà Mau ,vạch rõ san hà Nam-Bắc khác nhau 

Ta nhớ tới bài thơ của Đào Duy Từ viết thay chúa Nguyễn trả lời cho chúa Trịnh 

Năm 1762 chúa Trịnh bắt họ Nguyễn Đàng Trong phải thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương Nguyễn Phước Nguyên và đòi Sãi Vương phải cho con về Thăng Long chầu, đồng thời phải nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền làm lễ vật cống nạp nhà Minh

Sãi Vương không chịu nhận chiếu chỉ,không thuận theo điều gì hết ,Đào Duy Từ viết bài thơ trả lời 

Mâu nhi vô dịch,
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch

Phùng Khắc Khoan phải ra tay dịch ra bốn chữ: Dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc phong)

Họ Nguyễn không chịu thần phục triều đình,không nhận sắc vua Lê cho nên làm ra bốn câu thơ đó

Đào Duy Từ là người Đàng Ngoài,giỏi nhưng bị chà đạp,nửa đêm ôm bè chuối vượt sông Gianh vô Nam làm Lộc Khuê Hầu giúp chúa Nguyễn độc lập ,cắt đứt Đàng Ngoài 

Họ Trịnh biết,tiếc nên cho người ôm vàng bạc vô Nam dụ họ Đào về Bắc,chúa Trịnh viết thư ưỡm ờ 

“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay”

Đào Duy Từ trả lời rằng: 

“Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Tháng 1 năm 1775 khi Tây Sơn nổi dậy đánh chúa Nguyễn ,quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc cầm quân đã tiến vô nam đánh chiếm Phú Xuân

Quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân trong 11 năm với 3 vạn quân,cai trị mạnh tay,dân Thuận Hóa ná thở ,oán khí ngập trời 

Nếu coi nhau là đồng bào thì đã không có sự cai trị kinh khủng như vậy 

Năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ tiến ra đánh bật quân Trịnh giải phóng Phú Xuân .Tây Sơn xua quân giết quân Trịnh ,tàn sát gần hết ,một số chạy thoát ra khỏi thành thì bị dân Huế bản địa căm thù ra tay giết 

Trong một ngày khắp Phú Xuân xuất hiện ăn mày nhưng toàn là á khẩu,câm để giấu cái giọng Bắc ,tìm đường chạy ra Bắc thoát thân 

"Lịch Triều Tạp Kỷ" của Ngô Cao Lãng ghi rằng:

"Các lính thủ chạy đi các xóm làng để xin trú ngụ đều bị thổ dân giết sạch......giết hại tất cả đến vài vạn người, chỉ còn vài trăm người là qua được sông Gianh trở về Bắc Hà thôi"

Nguyễn Hữu Chỉnh,Ngô Thời Nhiệm,Đặng Trần Thường đều đã về Nam tìm gió mới ,Nguyễn Du cũng từng đi nhưng không thành công 

Đặng Trần Thường một nho sanh Bắc Hà xuất sắc cũng đã vượt đường cái quan,qua sông núi biển xa vạn dặm vào đến Gia Định 

Đất Bắc với nạn nhân mãn, anh cả,nhà thờ họ,lũy tre làng ,những con đê khổng lồ chặn hết phù sa ,những ông lý như tiểu vương đã là nỗi ám ảnh của nhiều người Việt lúc đó 

Xuôi Nam là con đường mà họ chọn để theo nước đẩy thuyền

"Tiếng ai than khóc nỉ non
Là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông"

Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý, lập phủ Gia Định gồm hai huyện: Phước Long kể từ tả ngạn sông Sài Gòn ra bờ biển Đông và Tân Bình kể từ hữu ngạn sông Sài Gòn tới sông Vàm Cỏ Đông

Người Miền Nam là con cháu Nam Kỳ,vốn là xứ của lưu dân Ngũ Quảng hiệp cùng người Minh Hương,Chàm,Khmer và bổn địa như Stieng tạo ra 

Cái máu Bắc trong người Miền Nam khai hoang không có bao nhiêu 

Ông bà ta nói đất sanh ra người,người là hoa của đất,là tinh túy của xứ sở , đất tạo ra tâm tánh người dân 

Chúa Nguyễn áp dụng những chánh sách cai trị rất khôn khéo,trước khuyến khích tạo điều kiện cho dân vào Nam khai hoang lập ấp,nói chung làm ăn ổn định cuộc sống trước đã.Sau khi cuộc sống của dân cư đi vào ổn định, Chúa Nguyễn bắt đầu áp dụng chính sách thuế trên đất Miền Nam

Người Nam Kỳ là dân khai hoang tứ xứ,vì kinh hoàng với xứ Bắc nên họ tạo ra văn hóa Nam Kỳ khác văn hóa Bắc  rất nhiều,ví dụ chuyện dòng tộc,lũy tre làng là không có ở xứ Nam 

Miền Nam không có Thị Mầu, không có Chị Dậu, không có Chí Phèo, không có cảnh người dân ngụ cư, làng này đánh làng khác 

Người Miền Nam  không lập gia phả,không có chế định nhà thờ họ.Nam Kỳ thời chỉ thờ cúng trực hệ tổ tiên trong 4 đời.Nam Kỳ bỏ "cả",chỉ công nhận "hai" ,cũng không lấy cái đình làng làm nơi dọa nạt người dân 

Lịch sử lưu dân Nam Kỳ quá trẻ,quá gần ,không có nhiều quá khứ ,nhưng quá khứ huy hoàng 

Bản chất dân Nam Kỳ đôn hậu mộc mạc.Tánh Nam Kỳ lửa rơm dễ nóng ,dễ cháy.Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn.

“Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi
Khó đi mượn chén ăn cơm
Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi” 

Đất Nam Kỳ không dễ dàng mà có ,ông bà cũng nẻ chưn tét da,rướm máu,mẻ xương,mất mạng mà giành nó,giữ nó và xây dựng,phát triển nó .Qúa trình dài và đầy máu,nước mắt,ai đọc sử cũng sẽ biết quá trình này 

Một hột giống gieo xuống đất ,đất đó phải xới,phải vun bồi,tưới tẩm,phải dẫn nước ,xẻ mương,mưa thuận gió hòa qua sự điều hòa của trời đất thì hột mới nẩy mầm cho ra cái cây,sanh bông kết trái 

Miền Nam có những mùa hạn khô queo không còn một miếng nước cực khổ thấu trời.Có những vùng nước tù đọng muỗi mòng rắn rít,những vùng phèn vàng khè cháy da cháy tóc .Ông bà Miền Nam phải đổ xương máu ra khai phá,đào kinh,xẻ mương,lên liếp 

Nói gọn lại là đất Nam Kỳ không phải tự dưng trên trời rớt xuống cái chủm cho người Việt ,đất này gốc của Phù Nam rồi Cao Miên ,người Việt phải trầy vi tróc da giữ nó,khai phá nó mới có cơm gạo

Prei NoKor,Phiên Trấn,Gia Định,Phan An,Sài Gòn đã thành một đô thị an vui,no ấm,thạnh vượng của Nam Kỳ Lục Tỉnh,là đô thành của Lục Tỉnh 

"Phủ Gia Định, phủ Gia Định, nhà đủ người no chốn chốn
Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn, ở ăn vui thú nơi nơi.
Lạc thổ nhóm bốn dân: sĩ nông công thương ngư tiều canh độc"

Đất Nam Kỳ từ khi lưu dân cắm đất khai phá và Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược thì cha ông chúng ta luôn hướng tới tự do,dân chủ,tôn trọng và muôn đời là như vậy

Sài Gòn là sản phẩm của người yêu chuộng tự do,của tinh hoa Nam Kỳ Lục Tỉnh

"Sài Gòn dễ ở khó về
Trai đi có vợ, gái về có con"

Sài Gòn là cái đỉnh cao của văn minh kiểu Lục Tỉnh,cách chơi Lục Tỉnh,tâm hồn Lục Tỉnh 

Tây Sơn tràn vào,không phải tự dưng mà có "Thảm sát cù lao Phố","Thảm sát Chợ Lớn" ,"Hủy diệt Mỹ Tho đại phố".Mục đích là kiếm một mớ rồi nhân tiện tiêu thổ luôn 

Những ngày đầu từ Phú Xuân vô Nam thì chúa Nguyễn Ánh cũng không là cái gì ,chẳng có danh gì ngoài cái danh “cháu Chúa Nguyễn” 

Lúc này Nam Kỳ đã có quân đội ,dân và hào phú Ba Giồng vì chống sự cướp bóc,giữ an xóm làng đã hùn tiền của,góp con cháu lập ra đạo quân Đông Sơn 3.000 người do Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy 

“Năm nầy Thanh Nhơn mới có 42 tuổi, khí lực cường tráng, tánh nết thẳng ngay, dám nói dám làm, không kiêng không vị”(Đỗ Nương Nương báo oán-Tác giả: Hồ Biểu Chánh)

Khi Tân Chánh Vương lẫn Thái Thượng Vương bị Tây Sơn bắt giết ở Sài Gòn thì chúa Nguyễn Ánh nổi lên như người kế thừa khôi phục sự nghiệp của họ Nguyễn
 
Năm 1777 Đỗ Thanh Nhơn đưa Nguyễn Phước Ánh lên làm tôn chủ cho chánh danh.Năm 1780 chúa  Nguyễn Ánh xưng vương

Và chúa Nguyễn Ánh lập mưu giết Đỗ Thành Nhơn đặng đoạt binh quyền 

Chúa Nguyễn Ánh đụng ngay sự phản kháng và bất hợp tác của thuộc hạ ông Nhơn là Võ Nhàn, Đỗ Bảng là những phó tướng,đầu lãnh của ông Nhơn ,họ dẫn quân đi gần hết,cát cứ vùng khác 

Một thời gian dân Nam Kỳ tẩy chay chúa Nguyễn Ánh.Tây Sơn lại hành quân vào,chúa Nguyễn Ánh đánh không thắng được trận nào,chỉ biết chạy lòng vòng

Võ Tánh là em Võ Nhàn,Võ Nhàn chống lại Nguyễn Ánh và cũng bị giết chết,vì vậy Võ Tánh phải bỏ đi chổ khác,sau cùng dẫn binh về cát cứ ở Gò Tre Gò Công 

Từ năm 1784, quân đội Võ Tánh với đạo quân "Khổng Tước nguyên võ" là lực lượng duy nhứt dám dàn trận công khai đánh chận Tây Sơn ở Gia Định.Chúa Nguyễn Ánh nhiều lần “chiêu dụ” Võ Tánh nhưng ông làm ngơ,không thèm nhìn vì thù anh ,ông tự mình đánh Tây Sơn 

Năm 1788 Võ Tánh nghe theo lời các tướng thân cận như Mạc Văn Tô,Nguyễn Văn Hiếu mới đồng ý theo Nguyễn Ánh vì hai chữ “chính danh” 

Tức là Võ Tánh bỏ qua tình riêng 

Nhà Nguyễn được thành lập là nhờ dân Miền Nam 

Chúng ta hiểu rằng với dân Nam Kỳ, họ Nguyễn Phước là họ tượng trưng nhưng không phải là số một 

Tỷ dụ vua Gia Long biết ông Lê Văn Duyệt là người ít học nhưng thẳng thắn và làm kinh tế giỏi nên đối với ông Duyệt có sự biệt đãi,ông Duyệt trung thành nhưng lại có cái cách “thinh thang’” kiểu Nam Kỳ khi Nam Kỳ cho tự do  tôn giáo,mua bán,thông thương, dân an vui no đủ 

Vua Minh Mạng tìm cách phá bỏ ảnh hưởng của phe Nam Kỳ trong Gia Định sau cái chết của ông Duyệt 

Vua đã đưa vào đất Nam “người của mình”,đám này chủ yếu có quê gốc ở Trung và Bắc để thực hiện những đường lối chánh sách mới,kiểm soát và nắm kinh tế,bỏ những ảnh hưởng của phái Gia Định và xóa bỏ mọi uy tín của vị Tả Quân trong dân chúng

Dân Nam Kỳ đã trả lời bằng cuộc đảo chánh của Lê Văn Khôi.Bộ sậu có con cháu Nguyễn Văn Tồn,Nguyễn Văn Thoại,Mạc Cửu ....những vị khai quốc công thần xưa 

Mắc cười thay! Lê Văn Khôi là người gốc Bắc.Điều này chứng tỏ rằng người Miền Nam không bao giờ câu nệ xuất thân,gốc gác,máu mủ.Cứ cùng chung suy nghĩ,cùng bảo vệ quyền lợi thì cứ mặc sức mà thể hiện 

Cuộc đảo chánh này không có phương hướng rõ,do dự,chần chừ và bị vài phần tử phản bội do “hèn” sau lưng nên rốt cuộc không thành công 

Dù trấn áp được cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi thành công,nhưng từ thời Minh Mạng triều đình Huế đã không còn “uy tín” như thời  vua Gia Long
 
Sau 1862 Nam Kỳ thành thuộc địa của Pháp 

Nghị định 82 ký ngày 6. 4. 1878 toàn Nam Kỳ phải chuyển sang chữ Quốc Ngữ,tức chữ La Tinh 

Tức là thủ tiêu chữ Hán và phải học chữ Quốc Ngữ

Năm 1878 chữ Quốc Ngữ áp dụng ở Nam Kỳ đầu tiên,các “tổ sư” chữ Quốc Ngữ áp dụng đầu tiên toàn dân Nam Kỳ như :Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản...

“Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện..."(Trương Vĩnh Ký “Vần quốc ngữ” xuất bản năm 1876)

Trong văn hóa Việt tộc ta ,vì xài chữ Quốc Ngữ nên Việt Nam được coi là nước theo hệ chữ La Tinh ,nhưng Việt khác các quốc gia Tây khác như Anh hay Pháp là chữ Quốc Ngữ có rất nhiều dấu

Chúng ta đã có chữ viết,chữ La Tinh tuy là "vay mượn" Tây,nhưng nó thể hiện đúng nhứt về cấu trúc cách nói,ngữ âm của dân tộc Việt,chỉ có 24 chữ ráp lại ,thêm dấu là xong,thể hiện đúng hình và thanh của dân tộc Việt 

Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định Báo, do Pháp lập năm 1865, với chủ bút Trương Vĩnh Ký, rồi Huỳnh Tịnh Của. Tiếp đó đến tờ Nam Kỳ Nhật Trình (số 1 ra ngày 21/10/1897), Nông Cổ Mín Đàm (số 1: 1/8/1901), Lục tỉnh tân văn (số 1: 15/1/1907) v.v... 

Theo tài liệu của Nguyễn Văn Trung (công bố năm 1987), cuốn tiểu thuyết quốc ngữ sớm nhứt viết theo lối Tây phương là "Thầy Lazzaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quản, xuất hiện ở trong Nam ngay từ 1887 và bản dịch Tam Quốc Chí đầu tiên, cũng khởi đăng trên Nông Cổ Mín Đàm, số một. (Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học)

Ông Phạm Quỳnh vào Nam năm 1918 hết hồn thấy báo chí,nhựt trình trong Nam nhiều quá 

Người Bắc 54 vô Nam ngạc nhiên khi có cảnh người đạp xe xích lô ở Sài Gòn, buôn gánh bán bưng vào buổi trưa tìm chỗ mát nghỉ ngơi, ngồi gác chân đọc nhựt trình, cảnh không thể có ở ngoài Bắc

Sở dĩ có hiện tượng này bởi vì Miền Nam có truyền thống đọc sách báo của người bình dân mà ở ngoài Bắc không có,bởi Miền Nam đã là vùng đất của quốc ngữ và báo chí, tiểu thuyết, ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khiến nền văn chương bình dân phát triển mạnh ở trong Nam, trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học trung lưu 

Tới năm 1910 chánh phủ Đông Pháp mới áp dụng chữ Quốc Ngữ ở Bắc Kỳ 

Nhớ hồi năm 2009  dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội,nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng muốn hiến tặng tượng cha A Lịch Sơn Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) cho Hà Nội 

Linh Mục Alexandre de Rhodes (1591 - 1666) là người có công lớn nhứt với chữ “Quốc Ngữ” Việt Nam ta 

Tuy nhiên sau đó ông Phạm Văn Hạng đã bị một số người lên án thất kinh.Trong khi Sài Gòn đã có đường Alexandre de Rhodes từ xưa rồi

Hà Nội không thể chấp nhận một con đường mang tên Alexandre de Rhodes nhưng lại có đường Mạc Đăng Dung thì cũng đã thể hiện suy nghĩ Nam Bắc khác nhau rồi 

Đi sau Miền Nam nhưng vẫn thích ta đây là anh cả, vẫn thích bố đời 

Thí dụ nữa là ,đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho có từ năm 1885 (ngưng chạy năm 1958).Dân Nam Kỳ kêu và đặt tên là “xe lửa” là từ chuẩn 

Xe vì nó chạy trên bộ,nhưng nó chạy bằng đường ray sắt và đầu máy hơi nước phun ra khói lửa nên kêu là xe lửa,trúng bài 

Sân bay Tân Sơn Nhứt xây ở Nam Kỳ đầu tiên,dân Nam Kỳ kêu sân bay là phi trường,phi cơ,phi công

Không biết vì sao từ máy bay thành tàu bay, từ xe lửa thành tàu hỏa?

Bắc thời đó là xứ kém văn minh,bị bỏ quên,tới những năm 1900 vì toàn quyền Paul Doumer muốn lấy Hà Nội làm bàn đạp tấn công qua Vân Nam nên mới dời thủ đô từ Sài Gòn về Hà Nội và bắt đầu xây hạ tầng

Nên nhớ thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers và ông Paul Blanchy,Chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ đều chống đối chuyện đem ngân sách Nam Kỳ đầu tư ra Bắc 

Hà Nội toàn đi sau Nam Kỳ 

Nam Kỳ định hình,khái niệm xe lửa,dầu hôi,xe hơi,phi trường,phi cơ là của người Nam đặt ra đầu tiên 

Bắc  đi sau nhưng rất khoái dạy đời,sửa chữ 

Sửa sạch sẽ,từ “nhựt” thành nhật,”bịnh” thành bệnh,”bổn” thành bản,”lộ” thành đường,”nhứt” thành nhất,"bịnh" thành "bệnh","dòng" thành "giòng" 

Cái gì mà tàu bay,tàu hỏa,cảng hàng không,dầu hỏa? 

Và nay lại sửa chữ Quốc Ngữ theo âm Bắc,dám nói đọc kiểu Nam  là sai?Bắc đứng ở chuẩn nào mà dám nói mình chuẩn nhứt ?

Trong gần 100 năm dân Nam Kỳ chỉ biết có Paris mà không nhớ Huế chứ đừng nói tới Hà Nội 

Vua Nguyễn chỉ là một chút hoài niệm của người Nam Kỳ.Dân Nam Kỳ chỉ biết có Thống Đốc,quan chủ tỉnh,chủ quận,đốc phủ sứ,ông hội đồng 

Thành ra giai đoạn Quốc Gia VN,Quốc trưởng Bảo Đại đâu có ở Sài Gòn lâu,ông thích ở Đà Lạt nhiều hơn,ông thích ở bên Pháp,bên Cannes nhiều hơn VN 

Đến độ lúc bị ông Ngô Đình Diệm làm trưng cầu dân ý lật đổ mà Bảo Đại có mặt ở Sài Gòn đâu

Quốc trưởng Bảo Đại dính với Nam Kỳ nhờ lấy bà Nam Phương hoàng hậu ,nếu soi kỹ ông không có dấu ấn nào với đất Nam Kỳ Lục Tỉnh 

Quốc trưởng Bảo Đại không đủ uy tín để cầm đầu đất Nam Kỳ 

Sử  dạy cho chúng ta trước nhứt là kinh nghiệm vì lịch sử không chỉ có quá khứ,sử nối liền quá khứ với hiện tại và tạo ra nền tảng tương lai

Bạn nhìn quá khứ ,cảm nhận hiện tại, hiểu hiện tại và hình dung ra tương lai ,hết thảy nó đi theo một quy luật nhứt quán

Lịch sử chánh trị Việt Nam xưa nay là lịch sử của biến động,chánh trị của binh đao,máu và nước mắt

Nhứt là khi xuất hiện xứ Đàng Trong,xứ Nam Kỳ thì người Bắc hết còn vai trò “độc quyền” trong chánh trị nữa,sĩ phu Bắc Hà không thể khua môi múa mép nữa 

Nam,Bắc,ta có nhiều điều vui và buồn từ ngày đó

Sài Gòn là đô thành,đẹp tuyệt vời,đẹp từ những cái tên đường

Một nhạc sĩ đã viết rằng :

"Cùng nhau đi tới Saigon
Cùng nhau đi tới Saigon
Thủ đô yêu dấu nước Nam tự do
Dừng chân trên bến Cộng Hòa
Người Trung Nam Bắc một nhà
Về đây chung sống hát khúc hoan ca"

Xin ghi nhớ  Trần Đại Định, Võ Tánh,Tả Quân Lê Văn Duyệt,Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy,Cha Cả Bá Đa Lộc ,Lê Quang Định,Trịnh Hoài Đức,Tôn Thọ Tường,Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hui Bon Hoa,Quách Đàm....đã ghi dấu ấn ở đất này 

Đất Miền Nam là đất dân chủ,tự do,biết vị nhân tâm ,hễ ai theo luật chơi thì cứ ở lại

Người Miền Nam không bao giờ nhìn họ hàng xa,cũng không bao giờ lấy số đông dòng họ ra "đè" người ta 

Người Miền Nam không quan trọng huyết thống kiểu "Một giọt máu đào hơn ao nước lã" 

Ai cũng biết câu đặc tánh Miền Nam  “Bán bà con xa mua láng giềng gần”.Đi đám hay đi ra đường tự dưng có người lạ hoắc xấn xổ nhào lại nhìn bà con xa thì người ta sẽ cảnh giác liền,muốn cái gì đây? 

Mà giàu mới bị nhìn bà con, nghèo thì nó khi dễ phun nước miếng chứ làm gì nhìn bà con.Coi kịch Kim Cương sẽ thấy 

Miền Nam cũng như Huê Kỳ là một hợp chúng quốc tứ xứ,ai có khả năng ,tôn trọng luật chơi,biết giữ đạo lý,biết giữ quyền lợi là cứ chơi . Cái kiểu "Một người làm quan cả họ được nhờ"người Miền Nam không ưng bụng 

Vũ Tài Lục nói rằng :”Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chánh trị” nên chúng ta phải siêng tìm sử 

Và thêm một câu nữa  xin góp là: “Hãy đọc sử với tư cách của người tử tế “

Lịch sử dân tộc này khá phức tạp,Nam Bắc vốn đã từng  là hai quốc gia riêng và cách suy nghĩ cũng có nhiều khác biệt 

"Tinh hoa" Bắc V gì mà "tụ lại","dồn vào" khi mà văn hóa,cách sống,hát xướng,cấu trúc xóm làng,cúng tế ,lễ nghi Nam Bắc đều khác nhau 

Bà bóng và cách thức lên đồng Nam Bắc cũng khác nhau mà 

Nội ẩm thực,ăn uống cũng khác nhau nữa.Hãy nhớ,đoàn kết là sự tôn trọng,tử tế chứ không phải dạy đời và áp đặt 

Không bàn tới yêu hay ghét kiểu lý tính,không nói ý thức hệ,bỏ hết,cũng không làm “phản động”như người ta hay nói,cứ nhìn lịch sử thôi và so sánh,ai không dám nhìn là đã thua nặng

Lịch sử rất công bằng,nếu cứ cố níu kéo,cứ phá,cứ làm nó nát bấy tất sẽ có sự trừng phạt,khi đó còn tàn khốc hơn trong thực tế 

Lịch sử đã cho người đọc sử thấy rõ ràng là xứ Bắc thời cuối nhà Lê trung hưng đã rất uể oải và không còn cái gì thì lấy đâu ra "tinh hoa" xuôi Nam.Khi mà Lê Chiêu Thống ôm Tàu về ,khi mà một anh "sơn dã" người phía nam sông Gianh như Nguyễn Huệ vô Thăng Long,một anh buôn trầu như Nguyễn Nhạc nhìn vua tôi nhà Lê khinh khỉnh coi thường trước hình ảnh ông vua già tàn tạ Lê Hiển Tôn lê lết lấy hơi lên sắp chết 

Thiệt là dở khi cố đào mồ mả tìm cho ra huyết thống.Để làm gì? Mọi sự là con người thực tại, là đầu óc thực tại, nó không phải chỉ là quá khứ 

Không ai cạp quá khứ ra ăn hoài để no bụng 

Thế giới văn minh luôn xiển dương sự tôn trọng nhau,có tôn trọng mới hiểu biết được.

@hunguyen06
Safechat

Thứ Bảy, 7 tháng 10, 2023

BA CUỘC ĐỔI HỌ LỚN TRONG SỬ VIỆT



Họ Nguyễn vượt mốc hơn 40 triệu người
Họ Lý đổi sang họ Nguyễn, họ Trần đổi qua họ Trình, họ Mạc chuyển thành nhiều họ… là những cuộc đổi họ lớn gắn với các cột mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn
Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400).
Nguyên Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224) nhường ngôi cho người con gái mới sáu tuổi là Chiêu Thánh công chúa tháng Mười năm giáp thân (cuối 1224), tức Lý Chiêu Hoàng (trị vì 1224-1225). Lý Huệ Tông lên làm thái thượng hoàng, xuất gia đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ Quang thiền sư. Trần Thủ Độ sắp đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh, mới tám tuổi, cưới Lý Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông.
Để củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt tất cả con cháu nhà Lý. Việc đầu tiên là Trần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một hôm ngang qua chùa Chân Giáo gặp thiền sư Huệ Quang đang nhổ cỏ trong vườn, Trần Thủ Độ nói rằng: “Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ cái”. Nghe thế thầy Huệ Quang trả lời: “Lời nhà ngươi nói ta hiểu rồi”. Sau đó, Trần Thủ Độ cho người mời thầy Huệ Quang vào triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự vận. (1)
Trần Thủ Độ ra lệnh đem gả các cung nhân và con gái họ Lý cho các tù trưởng các bộ tộc ít người ở các vùng núi xa xôi miền biên viễn. Tháng tư năm nhâm thìn (1232), nhân việc ban chữ húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của Trần Thái Tông tên là Trần Lý, nên Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết liệt là buộc con cháu họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn.
Gần cuối năm nhâm thìn (1232), tôn thất nhà Lý tập trung làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm nhà tế lễ bằng tre lá trên một cái hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung hành lễ, Trần Thủ Độ ra lệnh chôn sống hết con cháu nhà Lý để dứt điểm một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ lo lắng bấy lâu nay. Sau cuộc thanh trừng khủng khiếp này, con cháu nhà Lý không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế hàng năm, và họ thay tên đổi họ sống lẫn khuất trong dân gian để tránh bị tiêu diệt. (2)
Đặc biệt hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ của Lý Anh Tông đã bỏ nước ra đi năm 1226, cùng đoàn tùy tùng khoảng 40 người vượt biển sang lập nghiệp ở Triều Tiên hay Cao Ly tức Korea. Tám trăm năm sau, con cháu của hoàng tử này đã về Việt Nam thăm lại đất tổ. (3)
Một câu hỏi cần được đặt ra là tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ Nguyễn mà không qua họ khác ?. Điều này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ thể, chỉ biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và ngược lại họ Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. (4) Phải chăng Trần Thủ Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp nước?

2. Họ Trần qua họ Trình
Để quân Minh chóng rút về nước, cuối năm 1427, Lê Lợi chấp nhận giải pháp hòa bình trong danh dự cho cả hai bên: trước đây quân Minh xâm lăng nước ta dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, nay Lê Lợi đồng ý đưa Trần Cao lên ngôi, xem như quân Minh viễn chinh đã đạt được mục đích ban đầu là đưa người họ Trần trở lại ngôi báu, nay rút về nước trong vinh quang. (5)
Sau khi quân Minh về nước, Trần Cao biết thân phận mình, bỏ trốn về châu Ngọc Ma (Nghệ An), nhưng bi bắt lại, và uống thuốc độc chết. Lê Lợi lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ (trị vì 1428-1433).
Lê Thái Tổ được nước không do một cuộc đảo chánh cung đình mà do công lao chiến đấu của chính ông và gia đình, nên ông ít có thái độ kỳ thị với họ Trần là họ cầm quyền trước đó. Ông có một sách lược rất khôn khéo là ban quốc tính rộng rãi cho các công thần. Ngay khi vừa lên ngôi năm 1428, Lê Thái Tổ ra sắc chỉ cho ghi chép công trạng của những người đã theo vua khởi nghĩa, ban chức tước và quốc tính (họ của nhà vua) cho 221 người. Đây là đợt ban quốc tính nhiều nhất trong lịch sử nước ta, đến nỗi vua Tự Đức đã lên tiếng chê rằng “… cho quốc tính nhiều quá như thế nầy thì nhàm lắm”. (6)
Việc làm này của Lê Thái Tổ bề ngoài xem ra là một đặc ân, nhưng thật sự là một thủ đoạn chính trị ràng buộc các công thần bằng cách đồng hóa các quan vào họ nhà vua để dễ kiểm soát nhằm tránh hậu hoạn. Lê Thái Tổ là một người rất đa nghi. Những công thần đã cùng ông dày công đóng góp cho công cuộc giải phóng đất nước mà có bất cứ một biểu hiện nào khả nghi tức thì bị Lê Thái Tổ tiêu diệt ngay.
Nạn nhân đầu tiên là Lê Hãn tức Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn dòng dõi Trần Nguyên Đán, lập nhiều chiến công thời kháng Minh, được phong Hữu tướng quốc và họ Lê năm 1428, sau khi Lê Thái Tổ cầm quyền. Lê Hãn cho rằng “nhà vua có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, không thể cùng hưởng yên vui sung sướng được”, nên ông bắt chước Trương Lương, xin rút lui về hưu dưỡng. “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”, khi Lê Hãn về ấp Sơn Đông (Sơn Tây ngày nay) hưu dưỡng, ông vẫn bị gièm pha là mưu toan làm phản. Lê Thái Tổ ra lệnh cho người đến bắt. Khi thuyền đến bến sông Sơn Đông, Lê Hãn tự trầm mình qua đời (7) Dĩ nhiên việc trầm mình nầy cũng là một dấu hỏi lớn không bao giờ được trả lời.
Sau Lê Hãn đến Lê Văn Xảo tức Phạm Văn Xảo, bị Lê Thái Tổ nghe lời gièm pha ra lệnh phải chết và tịch thu nhà cửa cuối năm 1430. Dưới triều con của Lê Thái Tổ là Lê Thái Tông (trị vì 1434-1442), thêm ba vị đại công thần bị giết là Lê Nhân Chú (1434), Lê Sát (1437), và Lê Ngân (1437). Ngoài ra còn có Lê Khả và Lê Khắc Phục bị triệt hạ vào năm 1451 thời vua Lê Nhân Tông (trị vì 1443-1459).
Sau khi Lê Nghi Dân bị các tướng lãnh phản đảo chánh và lật đổ năm 1460, Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) được sử sách đánh giá là một minh quân, nhưng lại đi vào vết xe của nhà Trần. Vừa cầm quyền được hai tháng, Lê Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ huý của Cung Từ hoàng thái hậu. Bà nầy tên huý là Phạm Ngọc Trần, người làng Quần Lai, huyện Lôi Dương (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái Tông, tức bà nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình tên Trần nên yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ “Trần” đều phải đổi chép thành chữ “Trình”. (😎
Tại sao thời Lê Thái Tổ, rồi đến Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông, các vua không kỵ huý bà Cung Từ mà Lê Thánh Tông lại kỵ huý ? Phải chăng sau những biến động của triều đình kể từ khi Lê Thái Tông bất đắc kỳ tử năm 1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật đổ và bắt giết năm 1459, Lê Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần Thủ Độ trước đây) để tách ảnh hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa con cháu họ Trần đừng kiếm cách lợi dụng tình hình để phục hồi triều đại cũ.
Dầu sao, Lê Thánh Tông chưa đi đến chỗ quyết liệt như Trần Thủ Độ, nghĩa là Lê Thánh Tông vẫn chưa tận diệt họ Trần, và để cho những người họ Trần giữ những chức quan nhỏ như trong đoàn sứ thần gởi sang nhà Minh năm nhâm ngọ (1462) có Trần Bàn, hoặc trong viện Khâm hình của triều đình lúc đó có Trần Phong, nhưng không thấy có nhân vật nào họ Trần giữ chức vụ quan trọng mãi đến thời kỳ loạn lạc sau khi Mạc Đăng Dung đảo chánh (1527) mới thấy vài nhân vật họ Trần xuất hiện trở lại trên sân khấu chính trị nước ta.

3. Họ Mạc đổi thành nhiều họ
Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Mạc Đĩnh Chi, đỗ cử nhân võ và làm đô chỉ huy sứ năm 1508 (mậu thìn), nhờ thời thế dần dần được các vua nhà Lê tin dùng, thăng dần lên chức thái phó tiết chế các doanh quân thủy bộ, tước Nhân Quốc Công triều vua Lê Chiêu Tông (trị vì 1516-1522). Quyền hành càng ngày càng lớn, Mạc Đăng Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh lật đổ vua Lê Cung Hoàng (trị vì 1522-1527), tự mình lên làm vua tức Mạc Thái Tổ (trị vì 1527-1530) lập ra nhà Mạc.
Nhà Mạc cầm quyền từ thời Mạc Thái Tổ đến thời Mạc Mậu Hợp (trị vì 1562-1592), truyền được năm đời trong 65 năm. Trong lịch sử, họ Mạc bị lên án về các lỗi lầm sau đây:
– Tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lê, không trung quân (1527).
– Đầu hàng nhà Minh và cắt đất chia cho nhà Minh (1540).
Trước hết, bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng đều có phản ứng cả. Từ Lê Hoàn, Trần Thủ Độ đến Lê Quý Ly, tất cả đều bị những cựu quan bảo thủ của triều trước, mất quyền lợi đứng lên phản đối. Mạc Đăng Dung cũng nằm trong trường hợp đó.
Thứ đến, chúng ta cần chú ý: ai là người đã lên án gắt gao họ Mạc ? Câu trả lời rất rõ ràng là các sử quan nhà Lê trung hưng là những người đầu tiên lên án họ Mạc. Việc nầy rất dễ hiểu vì nhà Mạc dẹp nhà Lê, nay trung hưng được thì nhà Lê kết tội nhà Mạc. Sau đó là các sử quan nhà Nguyễn vì nhà Nguyễn không muốn ai lật đổ ngôi báu của mình nên lên án tất cả những ai đã tổ chức đảo chánh cung đình.
Nhưng “ở đời muôn sự của chung”, một triều đại (chính quyền) yếu đuối, kém khả năng cần được thay thế bằng một triều đại (chính quyền) khác hữu hiệu hơn để cai trị nước, đó là lẽ tự nhiên, nên việc đảo chánh của Mạc Đăng Dung không đáng bị lên án như các sách vở trước đây đã làm.
Việc đầu hàng nhà Minh và cắt đất xin hàng cần được xét lại trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Sau khi nhà Lê mất ngôi, hai vị cựu thần nhà Lê là Trịnh Ngung và Trịnh Ngang chạy qua nhà Minh tố cáo hành động của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đưa quân qua hỏi tội họ Mạc năm 1529 (kỷ sửu). (9)
Năm 1533 (quý tỵ), Nguyễn Kim tìm được con của Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, lập lên làm vua là Lê Trang Tông (trị vì 1533-1648) trong lúc đang lưu vong tại Ai Lao. Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn mười người đi đường biển từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu nhà Minh xuất quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 (bính thân), một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh họ Mạc.
Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục của Mạc Thái Tổ, nước ta trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng nầy, Mạc Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia sẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541.
Cuối cùng việc cắt đất nghe ra khá to lớn, nhưng đó chỉ là năm động của những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới Hoa Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, và La Phù thuộc châu Vĩnh An, ở Yên Quảng. Chúng ta cần chú ý là những sắc tộc ít người sinh sống trong các động dọc biên giới Hoa Việt không nhất định về theo chính quyền Trung Hoa hay Đại Việt, mà chỉ bên nào mạnh thì họ triều cống để được yên thân. Do đó, việc cắt đất nầy chỉ có tính cách giấy tờ chứ trên thực tế là bên nào mạnh họ theo.
Trong khi đó, sau khi trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. (10) Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540.
Vì quá ham lên án nhà Mạc, sử sách lơ là những công trạng đáng nhớ của nhà Mạc. Sau khi Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, rồi chạy sang Trung Hoa. Trước khi từ trần năm 1594, đại tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung: “… Họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Còn như dân ta là người vô tội, sao lại nỡ để cho dân mắc vào vòng mũi tên hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh ở nước khác, cốt phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với họ nữa. Lại dứt khoát chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải lần than khốn khổ …” (11)
Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc.
Điểm quan trọng nhất là con cháu nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh nước ta giống như nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu nhà Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất Cao Bằng. Chính họ đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết kinh thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về phương nam của chúa Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thể quên tuyên dương họ Mạc.
Khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, trung hưng nhà Lê (1593), con cháu họ Mạc tẩu tán khắp nước, một số lên Cao Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An ẩn trốn, và một số vào Nam theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi ra rất nhiều họ khác nhau. Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng Doanh, em của Mạc Kính Điển là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng, sau con là Mạc Cảnh Vinh đổi là Nguyễn Hữu Vinh. (12)Không những chỉ một họ Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác nữa. Trước đây, những họ nầy không lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân chủ trả thù, và một mặt việc sử sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây những ưu phiền cho con cháu họ nhà nầy. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó, con cháu những họ nầy thấy rõ rằng nhà Mạc không đáng bị lên án như người ta đã làm xưa nay, bỏ qua những ưu phiền không đáng, sẽ lên tiếng để tìm về gốc gác ông bà mình.

Qua ba cuộc đổi họ trên đây, lý do chính đưa đến việc đổi họ là do tiên tổ các họ nầy đã lên nắm chính quyền, lập triều đại, sau bị truất phế và bị nghi ngờ nên con cháu bị bắt buộc phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử nước ta, có một dòng họ lớn từ thời Ngô Quyền lập quốc cho đến nay không thay đổi mà mỗi ngày một phát triển, hưng thịnh. Đó là họ Nguyễn Phúc ở Gia Miêu ngoại trang, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Thời điểm cực thịnh của họ Nguyễn Phúc là việc lên ngôi năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia Long (trị vì 1802-1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai trị một đất nước rộng lớn nhất so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo thống kê, hiện nay có khoảng hơn 40 triệu người Việt cả ở trong và ngoài nước mang họ Nguyễn.

Gia Nguyễn 

————————————
Chú thích:
A. Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, gọi tắt là Cương mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tr. 448-449.
B. Cương mục, bản dịch, tr. 456.
C. Nguyệt san Làng Văn, Toronto, Canada, số 125, tháng 1-1995, tr. 17.
D. Chỉ cần xem lịch sử danh nhân Trung Hoa, chúng ta thấy rất ít người họ Nguyễn; trong các từ điển danh nhân Việt Nam, họ Nguyễn rất nhiều. Ngày nay, mở danh bạ điện thoại, chúng ta thấy họ Nguyễn chiếm khoảng gần 50%.
1. Thổ quan châu Ngọc Ma (Nghệ An), tên là Hồ Ông, tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ Tông (trị vì 1370-1372). Cuối năm bính ngọ (1426), để đáp ứng ý muốn của người Minh trong các cuộc thương thuyết, Lê Lợi cho đón Hồ Ông về, đổi tên là Trần Cao, đặt lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Khánh. (Cương mục, bản dịch tr. 803-804).
2. Cương mục, bản dịch tr. 864-865.
3. Cương mục, bản dịch tr. 880.
4. Cương mục, bản dịch tr. 1013.
5. Cương mục, bản dịch tr. 1327.
6. Cương mục, bản dịch tr. 1418-1419.
7. Cương mục, bản dịch tr. 1411.