Xin mời quí vị đọc một bài viết và rất can đảm của một phụ nữ trẻ hiện đang sinh sống tại Việt Nam (zoomzy@hotmail.com; K3HH@yahoogroups.com)
Bài viết này sẽ không có một chữ việt nam nào được viết hoa. Bởi chúng ta có xứng đáng được trân trọng như vậy không? Không hề.
Cách đây đã lâu, tôi đọc“người trung quốc xấu xí” của ông Bá Dương (Ðài Loan), chưa bàn tới hay/dở/ đúng/ sai của nội dung cuốn sách gây tranh cãi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật mình của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong lòng. Tôi biết thế giới đã từng có những cuốn như “Người Mỹ xấu xí,” ”Người Nhật Bản xấu xí,” rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này? Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ mình trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,...” ...nhìn đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ... Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này?
Một đất nước mà hơn phân nửa các cô cậu tú tài đi thi cử nhân khoe rằng mình có quay cóp một cách hoàn toàn không có chút tự trọng (đó là được hỏi, còn báo chí không cần hỏi vẫn có những hình ảnh phao thi trắng cả trường thi! Vậy thì thi cái gì? Thi xem ai quay cóp giỏi hơn chăng?). Trong đó còn có cả những đứa trẻ bảo rằng năm nay không thi thì năm sau thi, chứ làm bài mà phỉ báng “thần tượng Su-Ju” của nó là nó không thi! Mặc cho bao nhiêu tâm sức, kỳ vọng của gia đình, nhà trường, xã hội - những nền tảng đã cho nó có được cuộc sống và kiến thức để mà tiếp cận được với Su-Ju danh giá của nó. Thế mà nó vẫn được rất nhiều đứa trẻ khác tung hô! Chính là những đứa trẻ sẵn lòng khóc lóc, quỳ gối, hôn ghế... trước thần tượng. Một dân tộc gì đã sản sinh và nuôi dạy ra một thế hệ kế thừa như thế?
Con nít nó học cha anh mà ra, chúng ta đã nuôi dạy trẻ con thành ra như thế sao? Ðừng ai đổ thừa cho ai. Vì trường học đổ cho cha mẹ, cha mẹ đổ cho xã hội, xã hội đổ cho cha mẹ... nhà trường. Tóm lại, đừng đổ thừa nữa. Hãy biết hốt về mình đi! Tất cả chúng ta là người lớn, chúng ta đều có lỗi.
Bởi người lớn có hơn gì? Một xã hội mà người ta đang sẵn lòng thuốc chết nhau đi từng ngày bởi tiền bạc bất kể lương tri. Làm quan thì chỉ lo vơ vét, tham nhũng, quỳ gối trước ngoại bang để duy trì sự thống trị trước nhân dân.
Gần 40 năm thống nhất, việt nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường... trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái không có,... nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu. Người ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm.” Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình.” Cứt! Tôi ỉa vào cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ ngoài đường. Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn phải chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất. Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi quay lưng lại với dân tộc mình? Ðơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân ... gia đình nó- nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể tin vào lúc này? Ðừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động.”
Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh phúc. Còn bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đã cho chúng con một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết,...
Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm gì nữa?
Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức:Bên trên, chúng nhìn thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ còn biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên, tránh né bên cạnh... ức hiếp bên dưới.
Sao mà tôi sợ bọn người đó như thế?!
Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,... làm “đầy tớ” của nhân dân!
Bọn công bộc đó đã cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sài Gòn ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan.
Bọn công bộc đó đã đẩy 2 mẹ con người phụ nữ nọ phải dùng đến cách phản kháng cuối cùng mà họ có là khỏa thân ở giữa đường để đòi lại công bằng. Vì trong tay họ còn có gì để chống lại chúng ngoài phẩm cách của người đàn bà vốn được coi là thiêng liêng? Họ dùng đến cách đó, và cuối cùng bị chúng lôi kéo dọc đường và nỗi oan của họ có ai thèm đoái tới?
Bọn công bộc đó đã đẩy đến đỉnh điểm hôm nay, một người mẹ uất ức tự thiêu trước cổng 1 cơ quan công quyền vì không còn sức để chịu đựng chúng...
Tôi sợ bọn chúng vì bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi. Ðáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội - thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.
Bọn này tiếp tay cho bọn con buôn cũng lưu manh không kém. Thế là chúng ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày, con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày, chúng ta đi trên những con đường hiểm họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng những gì chúng mang tới, chúng ban phát, với giá mà chúng ấn định, với mức thuế mà chúng muốn,... không còn một lựa chọn nào khác. Không biết làm gì khác, không có phản ứng gì khác! Vì chúng ta lương thiện.
Kẻ không lương thiện có những phản ứng tàn độc hơn, hoặc biến hẳn sang một trạng thái sống khác, như một sự kết tinh cao cấp hơn của một xã hội đương nhiên sẽ sản sinh ra nó.
Tôi nghĩ đến bọn này khi tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.
Tôi đọc tin ông bà chủ đánh trẻ làm công đến thương tật.
Tôi đọc tin một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc chỉ vì một chiếc xe máy và chút ít tài sản.
Tôi đọc tin bọn chủ... lơ xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng.
Tôi đọc tin nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt.
Tôi đọc tin người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp!... Còn rất nhiều tin.
Một dân tộc gì mà độc ác và hèn hạ thế? Dĩ nhiên không chỉ có mình tôi biết đau đớn vì những điều đó.
Chúng ta có cả một thứ to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc.”
Trong những tác phẩm thi ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi không dám nói mình đọc nhiều hay nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc, nghe, cố gắng tìm tòi, cố gắng tìm kiếm một tác phẩm nó xứng đáng làm cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,...” một cách đúng nghĩa. Vì hãy quên những hình tượng cách mạng cao đẹp trong văn chương hay cả âm nhạc của miền Bắc thời chiến tranh đi! Ðó không phải là văn chương, nó là thuốc pháo, tìm cách dẫn dắt, thôi thúc người ta chém giết... chết. Không hơn không kém.
Các bạn có tìm kiếm giống tôi không? Và các bạn có tìm thấy không? Hay đầy rẫy xung quanh chúng ta chỉ có 3 loại:
- Loại mờ nhạt, rẻ tiền, xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.
- Loại có trăn trở, có suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt đi đâu và vứt cho ai?
- Loại mạnh mẽ hơn, trực diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi!
Tinh thần chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi.
Còn những thứ hổ lốn lai căng phát trên TV, bán ngoài sạp báo mỗi ngày, tôi không dám kể tới, vì đó là nỗi kinh hoàng mà nếu phân tích thêm, chỉ muốn vứt cái đầu mình đi, không cần suy nghĩ nữa làm gì cho mệt óc.
Vậy cái gì đã gây nên nông nỗi? Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái gì cũng do lỗi cộng sản.
Nhiều người rất cực đoan, nói ra cái gì sai, họ cũng đổ vấy hết cho cộng sản. Nhưng cộng sản tệ đến thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ này, thì chúng ta cũng tệ không kém!
Nghe nói cụ Tản Ðà có câu:
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn!
Cho nên quân ấy mới làm quan.
Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại.
Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế?
Ngoài sự cấu kết quyền lực-quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đã làm gì để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng còn làm gì nữa?
Ai từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được, thì hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngõ ngách tâm hồn. Pháp luật cũng không ép tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm được dân tộc này đã hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ, ...Vì những người này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,... thì họ còn sợ gì nữa? Việc gì mà họ không dám làm?
Còn những kẻ yếu không có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn soi sáng mình, giúp đỡ mình, ngự trị trong mình, thì họ còn biết dựa vào đâu để tìm lại niềm lạc quan mà sống? Mà tranh đấu để tự tìm lấy giá trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa đã ban cho mỗi chúng ta?
Tôi có cảm giác như mình đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu, hỗn loạn về vật chất - nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế không?
Giữa sự hỗn loạn và hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng ta. Chúng ta - những kẻ được đến trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ mình lương thiện nhưng thật ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng thật sự chưa hề nếm mùi vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách - nghe nhạc mỗi ngày nhưng không biết đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực - một nền nghệ thuật có thể soi sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lãng. Những kẻ hoang mang không biết tin ai, không hiểu nên làm gì cho đúng.
Lúc đó, lúc hỗn loạn và hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói: Ðời chúng mày chỉ cần độc lập-tự do-hạnh phúc.
Chúng ta tưởng thế là hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không? Có hạnh phúc không? Hay chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng ta thực chất đang sống thế nào đây? Và đang để lại cho con cháu chúng ta di sản gì?
Chúng ta đeo bám theo họ, quên cả chính bản thân mình, một con người, cần phải sống sao cho đúng nghĩa, đúng phẩm cách, hành động đúng theo những gì mà một con người có lương tri cần phải hành động.
Bạn có đang tự hào vì mình là người việt nam không? Hỡi những con người ấu trĩ mang trong mình một đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào vì tôi là người việt nam “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,...” đã từng đấu tranh thắng Mỹ, các bạn không thấy điều đó nó hết thời rồi à? Ta thắng Mỹ để có một xã hội phồn vinh, một dân tộc được tôn trọng. Chứ còn thắng Tàu, thắng Pháp, thắng Mỹ, thắng khắp nơi... Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi chúng ta còn không hơn con chó thì cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm nhục?
Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Ðông,” “bà Hillary dọa TQ không nên gây hấn,”... để mong lòng dân yên ổn. Mặt trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đã từng được Tàu đào tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Ðĩ” chưa từng thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót. Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?
Còn dân việt nam thì sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa không? Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả rồi, không cần nói nữa.
Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử.
Bổ sung: Sau khi bài này được upload, tôi nhận được khá nhiều comments và cả message. Không biết phải đánh giá như thế nào về những comments hỏi ngược lại tôi với một thái độ khinh khỉnh, qua nhiều câu chữ khác nhau, nhưng đại khái cùng 1ý: “Vậy bạn có hèn không?” He he... Tôi chỉ muốn nhấn mạnh lại 1 điều, suốt cả bài viết, tôi không gọi những người hèn là “các bạn,” tôi gọi là “chúng ta.” Như vậy có dễ hiểu hơn chưa nhỉ?
Tôi không thích tự nhận hay gán ghép. Tôi chỉ nói lên những suy nghĩ của mình, còn đánh giá tôi hay đánh giá chính mình, các bạn cứ tự làm lấy. Thiết nghĩ, đâu cần phải tranh luận chuyện ai hèn, ai không hèn ở đây! Biết hay không biết mới là quan trọng. Mà cái sự khổ sở để đi từ cái “không biết/chưa biết” đến cái “biết” nó sẽ là một quá trình gian nan mà mỗi người phải tự thân trải nghiệm. Không ai giúp ai được đâu. Và tôi hiểu, cái “biết” của tôi nó cũng chỉ giới hạn trong tầm nhân sinh quan nhỏ bé của cá nhân tôi mà thôi. Còn bạn, hãy tiếp tục giữ lấy niềm lạc quan của bạn. Con cừu vẫn có được niềm hạnh phúc mỗi ngày được gặm cỏ non, uống nước suối, ngắm bầu trời xanh, chờ đến ngày xẻ thịt mà! Ðúng không? Hạnh phúc vẫn khắp quanh ta! Những con cừu không biết “tự sướng,” không biết “thủ dâm tinh thần” thì quả thực là ngu còn hơn... cừu! He he...
Bổ sung tiếp: “....Ông bảo xã hội nào cũng có những điều bẩn thỉu. Tôi công nhận điều ấy. Nhưng xã hội bẩn thỉu nhất ông có biết là xã hội nào không? Là xã hội mà thằng ăn cắp không cho rằng nó phạm pháp, nó đang làm điều xấu, người lương thiện thì run sợ, thằng bất lương lại coi việc nó làm là bình thường và kẻ vô liêm sỉ như ông thì vênh vang tự đắc: ta là số đông. Chính là xã hội này đây....” (trích comment của khongnoibiet).
Tự Do Phải Tranh Ðấu Bằng Xương Máu Và Cả Tính Mạng
(Nguồn: a20xuanphuoc@googlegroups.com)
Thứ Năm, 12 tháng 5, 2016
Thứ Ba, 10 tháng 5, 2016
TƯỞNG EM CHƯA CÓ CHỒNG
Từ ngày biết đươc thân xác mình chứa đầy bịnh hoạn… tôi đong đưa cùng ngày tháng từ quán cà phê nầy sang quán cà phê nọ với tâm trạng ngồi chờ chết. Mặt tôi lì ra trên mỗi góc phố.
Mỗi quán cà phê tôi ngồi, tôi lượm được vài chục thằng quen.
Lúc nhỏ thời trung học, không biết tôi đọc được từ một quyển sách nào hay một tờ báo nào cùa một thằng Tây, thằng Tây thứ thiệt chứ không phải Tây Ninh của quê hương tôi, nó bảo: Muốn biết được trình độ văn hóa của một nước, kiến thức tổng quát con người của nước ấy ở mực độ nào thì…cứ đếm số lượng quán cà phê hè phố mà nước ấy có. Không hiểu bạn có đồng ý với thằng Tây nầy không? Phần tôi trong hoàn cảnh hiện tại, tôi thấy thằng Tây nầy nói đúng quá.
Ngồi quán cà phê, nếu lỗ tai của bạn biết chia năm xẻ bảy, biết cất giữ và vứt đi, biết tĩnh tọa và mặc nhiên… Không cần đọc sách, không cần nghe radio, không cần xem tivi, chắc chắn bạn cũng sẽ là người biết lắm chuyện. Có chuyện mực độ chính xác được khẳng định báo đăng, đài nói, thiên hạ đồn, lại có những chuyện trên trời dưới đất…nghe qua cứ y như là bị nghe mấy thằng cộng sản nói.
Mang thân phận lưu vong, mỗi thằng ngồi quán cà phê đều bạc đầu cùng quá khứ. Tận cùng của đáy lòng là mênh mang nỗi nhớ….
Câu chuyện khởi đầu từ đâu đâu bỗng dừng chân tại xứ Huế. Huế ở đây không là một vạc áo nâng gió qua cầu Trường Tiền; Huế ở đây không là một giọt trăng rớt xuống khoang thuyền sông Hương giữa tàn thu vời vợi…Câu chuyện mà chúng tôi đang nhắc đến là những thằng bạn Huế cùng thời chinh chiến, những thằng sáng chói và cứng như thỏi vàng ròng, những thằng mà năm mô, năm ni như năm tê… vỗ ngực nhận mình dân Huế 24 kara.
Người bạn tôi vừa quen - Nguyễn Đăng Tri - Quê Ưu Đàm Thừa Thiên Huế, tự hào là một Huế 24 kara. Huế 24 kara, ai muốn hiểu sao thì hiểu; Huế bạt mạng, Huế chịu chơi…và Huế trước sau như một…. Tào lao tự quán cà phê, Nguyễn Đăng Tri có lẽ thuộc loại Huế trước sau như một nầy.
Khoác cái bề ngoài của một lãng tử mang mang, thửng thờ như hạt bụi, hiện tại lại là kẻ lữ hành đang chờ chết nơi bạc trắng tha phương… Nguyễn Đăng Tri lại gồng gánh cho thân phận mình một kiến thức tài hoa.
Những ngày Quê Hương mờ trời lửa đạn, Anh góp mặt cùng bọn tôi vác dao mổ ra chiến trường…Anh là một Bác sỹ Quân Y của Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân hoạt động trong lãnh thổ vùng hai chiến thuật… Cạnh Anh quanh bàn cà phê một Tây Nguyên ngậm ngùi chợt thức, nhìn xuống gót chân như còn dính vết bụi hồng, quơ trên bờ vai như còn vướng từng lọn sương mù khe núi…Chúng tôi cùng Anh choàng vai Pleime xé trời mưa pháo, lúc hào khí ngút trời, lúc rời rã tan thương. Chúng tôi cùng Anh sững sờ Benhet… mở rộng vòng tay ôm những thằng bạn hiếm hoi quay về…vẽ huyền thoại quanh vòng ly rượu đế…Cuôc sống rồi cũng qua, rồi cũng nhớ, rồi cũng thương… bởi vì Tây Nguyên không chỉ là trời lửa đạn, Tây nguyên với bọn tôi, với Anh còn Thủy, còn Mai, còn Dung,,, còn Phố Núi… “Anh khách lạ đi lên đi xuống, may mà có Em đời còn dễ thương….”
…… Ngày qua ngày tôi gặp Nguyễn Đăng Tri nhiều hơn và xích lại gần Anh nhiều hơn.
Từ nơi Anh tôi nghe được những điều tôi không có cơ hội để biết và những điều tôi không cần để biết. Bình thường thì con người Anh lặng như phiến thạch mộ bia nhưng khi góp chuyện thì Anh lại sùng sục đam mê. Bằng phương pháp nào để biến một bộ ngực của phụ nữ từ xấu thành đẹp, phương pháp nào để vẽ đường biểu diễn của hàm số vô tỷ trong môt phút…điều kiện cần và đủ để có một nồi bún bò Huế ngon…Mỗi đề tài Anh đưa ra như tự tay cầm con dao mỗ, chính xác (theo anh), tường tận (theo tôi). Sự sôi nổi của Anh gợi tôi nhớ đến một Tổ Thiên Thu khi luận đàm về rượu cùng Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ: một Đoàn Dự thao thao bất tuyệt về cách thức chăm sóc Hoa Trà trong Mạn Đà Sơn Trang từ Lục Mạch Thần Kiếm .
Một hôm, tôi gặp Anh, không phải từ quán cà phê mà từ một bàn rượu nơi nhà của một người bạn…Anh đến và mang theo cây đàn guitar.
Anh tự giới thiệu mình là Đăng Phương… người nhạc sĩ có thời gian cầm đàn không bằng thời gian của những nhạc sĩ khác lên dây đàn.
Với cái giọng khan đục bởi thời gian, với cái ngập ngừng chênh vênh như thân phận
“-Tôi muốn đến nơi đây
-Tôi muốn hát đêm nay
-Tôi muốn uống cho say để quên đời đắng cay
-Tôi muốn đến bên anh
-Tôi muốn xé đêm thanh
- Tôi muốn hát đêm nay hát cho đời đổi thay….”
…. Tôi là người rất dốt về âm nhạc, tôi thường khoe cái dốt về âm nhạc của tôi với bạn bè là tất cả những ký hiệu để viết thành một bản nhạc, tôi chỉ biết có mỗi khóa Sol.
Nói như vậy rõ ràng là…đối với Âm Nhạc tôi là một người mù; thưởng thức âm nhạc theo cách của tôi là cách… Người mù nghe gió kiếm. Hể cứ một bản nhạc nào chọc thẳng vào tâm trạng tôi, đào bới vào cái hoàn cảnh của tôi và nhứt là người diễn đạt lột trần được lời ca thì…tôi thấm.
Đăng Phương lần nầy đã làm tôi thấm…cái thấm của kẻ ghiền rượu mới ngửi được mùi beer đã say…Tôi lang thang cùng Đăng Phương qua Nỗi Buồn Đỉnh Cao
“-Tìm nhau những buổi chiều mưa
-Đạn rơi bom nổ đong đưa tháng ngày
-Những khi lòng đói mềm tay
-Chuyền nhau hơi ấm ai hay nỗi niềm?...”
Tôi lang thang cùng Đăng Phương vào Huế Nhớ Thương
“-Mấy năm rồi xa Huế nhớ gì không ?
-Mỗi con đường một kỷ niệm ngày xưa
-Những chiều mưa thẹn thùng buổi ban đầu
-Là hẹn hò âu yếm mãi ngàn sau…”
Thằng Huế nào lại không nhớ Huế, chuyện tầm thường bỏ đi , còn tôi ột dột mần răng cũng từng lăn cù mèo bởi vạc áo dài Sông Hương Núi Ngự quấn chân.
Tôi trùm chăn ký ức quyện tròn như hơi khói thuốc lào phà vào ly rượu mạnh, đang phê, rồi chợt lạnh… Đăng Phương đang hát, tưởng gì không tưởng lại TƯỞNG EM CHƯA CÓ CHỒNG (đó là tựa một bài hát cũng là tựa TẬP NHẠC ĐĂNG PHƯƠNG )
Ngày xưa, trong đời lính rày đây mai đó, lúc đất đỏ lúc rừng xanh, thời gian ngã nón chào phố, dù là phố núi hay phố quận đìu hiu, của tôi… cũng thật là ngắn ngủi bật rật. Tôi cũng đã từng… Theo Ngọ về và cũng đã từng té ngữa… vì Ngọ đã có chồng. Cái tò te dễ thương và cũng rất dễ bị đánh đòn…Tôi không hiểu người bạn tôi Đăng Phương, đã đụng hoàn cảnh nầy, trong lúc đó trái tim Huế 24 kara của Anh vẫn nguyên si hay teo lại vì se thắt. Tôi thì tôi mỗi lần như vậy tôi cứ ngờ ngợ tự tay mình mang con tim thả vào xô nước đá ngâm chai Champagne…Mùi vị Champagne thì bốc nồng, con tim thì teo riết
Cầm con dao mỗ làm một phẩu thuật thẩm mỹ, Bác sĩ Nguyễn Đăng Tri, bằng cái đầu đã đòi hỏi sự chính xác đến một phần trăm li, tự mình không cho phép một sự lầm lẫn nào. Cầm cây đờn Guitar, nhạc sĩ Đăng Phương bằng con tim, khi chùng khi căng…quờ quạng trong đam mê, thật thà trong tâm thức
“-Tôi ngồi hóa đá thành sông
-trả em nỗi nhớ mênh mông ngàn trùng
-Tôi ngồi hóa đá thành thơ
-Trả em một thuở dại khờ chớm yêu…”
Ngồi quán cà phê… tôi thường lượm lại bao cái cũ rích của nghĩ suy. Con tim khôn ngoan là con tim nên vứt đi, bởi lẽ…tình yêu chẳng phải là bài toán cộng mà cũng chẳng phải là bài toán trừ, tình yêu nó có thể là một ngọn lửa, một tảng băng… nó làm đam mê phừng phựt, nó làm đam mê run rẫy. Tôi cầu trời cho người bạn tôi không phải là một Nguyễn Đăng Tri mẫu mực mà là một nhạc sĩ Đăng Phương phiêu bạt… và dại khờ trong tình yêu cũng được! Được vậy từ anh tôi mới có những nốt nhạc lao đao trong quá khứ và mượt mà trong ngày tháng tha phương.
Trạch Gầm
Mỗi quán cà phê tôi ngồi, tôi lượm được vài chục thằng quen.
Lúc nhỏ thời trung học, không biết tôi đọc được từ một quyển sách nào hay một tờ báo nào cùa một thằng Tây, thằng Tây thứ thiệt chứ không phải Tây Ninh của quê hương tôi, nó bảo: Muốn biết được trình độ văn hóa của một nước, kiến thức tổng quát con người của nước ấy ở mực độ nào thì…cứ đếm số lượng quán cà phê hè phố mà nước ấy có. Không hiểu bạn có đồng ý với thằng Tây nầy không? Phần tôi trong hoàn cảnh hiện tại, tôi thấy thằng Tây nầy nói đúng quá.
Ngồi quán cà phê, nếu lỗ tai của bạn biết chia năm xẻ bảy, biết cất giữ và vứt đi, biết tĩnh tọa và mặc nhiên… Không cần đọc sách, không cần nghe radio, không cần xem tivi, chắc chắn bạn cũng sẽ là người biết lắm chuyện. Có chuyện mực độ chính xác được khẳng định báo đăng, đài nói, thiên hạ đồn, lại có những chuyện trên trời dưới đất…nghe qua cứ y như là bị nghe mấy thằng cộng sản nói.
Mang thân phận lưu vong, mỗi thằng ngồi quán cà phê đều bạc đầu cùng quá khứ. Tận cùng của đáy lòng là mênh mang nỗi nhớ….
Câu chuyện khởi đầu từ đâu đâu bỗng dừng chân tại xứ Huế. Huế ở đây không là một vạc áo nâng gió qua cầu Trường Tiền; Huế ở đây không là một giọt trăng rớt xuống khoang thuyền sông Hương giữa tàn thu vời vợi…Câu chuyện mà chúng tôi đang nhắc đến là những thằng bạn Huế cùng thời chinh chiến, những thằng sáng chói và cứng như thỏi vàng ròng, những thằng mà năm mô, năm ni như năm tê… vỗ ngực nhận mình dân Huế 24 kara.
Người bạn tôi vừa quen - Nguyễn Đăng Tri - Quê Ưu Đàm Thừa Thiên Huế, tự hào là một Huế 24 kara. Huế 24 kara, ai muốn hiểu sao thì hiểu; Huế bạt mạng, Huế chịu chơi…và Huế trước sau như một…. Tào lao tự quán cà phê, Nguyễn Đăng Tri có lẽ thuộc loại Huế trước sau như một nầy.
Khoác cái bề ngoài của một lãng tử mang mang, thửng thờ như hạt bụi, hiện tại lại là kẻ lữ hành đang chờ chết nơi bạc trắng tha phương… Nguyễn Đăng Tri lại gồng gánh cho thân phận mình một kiến thức tài hoa.
Những ngày Quê Hương mờ trời lửa đạn, Anh góp mặt cùng bọn tôi vác dao mổ ra chiến trường…Anh là một Bác sỹ Quân Y của Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân hoạt động trong lãnh thổ vùng hai chiến thuật… Cạnh Anh quanh bàn cà phê một Tây Nguyên ngậm ngùi chợt thức, nhìn xuống gót chân như còn dính vết bụi hồng, quơ trên bờ vai như còn vướng từng lọn sương mù khe núi…Chúng tôi cùng Anh choàng vai Pleime xé trời mưa pháo, lúc hào khí ngút trời, lúc rời rã tan thương. Chúng tôi cùng Anh sững sờ Benhet… mở rộng vòng tay ôm những thằng bạn hiếm hoi quay về…vẽ huyền thoại quanh vòng ly rượu đế…Cuôc sống rồi cũng qua, rồi cũng nhớ, rồi cũng thương… bởi vì Tây Nguyên không chỉ là trời lửa đạn, Tây nguyên với bọn tôi, với Anh còn Thủy, còn Mai, còn Dung,,, còn Phố Núi… “Anh khách lạ đi lên đi xuống, may mà có Em đời còn dễ thương….”
…… Ngày qua ngày tôi gặp Nguyễn Đăng Tri nhiều hơn và xích lại gần Anh nhiều hơn.
Từ nơi Anh tôi nghe được những điều tôi không có cơ hội để biết và những điều tôi không cần để biết. Bình thường thì con người Anh lặng như phiến thạch mộ bia nhưng khi góp chuyện thì Anh lại sùng sục đam mê. Bằng phương pháp nào để biến một bộ ngực của phụ nữ từ xấu thành đẹp, phương pháp nào để vẽ đường biểu diễn của hàm số vô tỷ trong môt phút…điều kiện cần và đủ để có một nồi bún bò Huế ngon…Mỗi đề tài Anh đưa ra như tự tay cầm con dao mỗ, chính xác (theo anh), tường tận (theo tôi). Sự sôi nổi của Anh gợi tôi nhớ đến một Tổ Thiên Thu khi luận đàm về rượu cùng Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ: một Đoàn Dự thao thao bất tuyệt về cách thức chăm sóc Hoa Trà trong Mạn Đà Sơn Trang từ Lục Mạch Thần Kiếm .
Một hôm, tôi gặp Anh, không phải từ quán cà phê mà từ một bàn rượu nơi nhà của một người bạn…Anh đến và mang theo cây đàn guitar.
Anh tự giới thiệu mình là Đăng Phương… người nhạc sĩ có thời gian cầm đàn không bằng thời gian của những nhạc sĩ khác lên dây đàn.
Với cái giọng khan đục bởi thời gian, với cái ngập ngừng chênh vênh như thân phận
“-Tôi muốn đến nơi đây
-Tôi muốn hát đêm nay
-Tôi muốn uống cho say để quên đời đắng cay
-Tôi muốn đến bên anh
-Tôi muốn xé đêm thanh
- Tôi muốn hát đêm nay hát cho đời đổi thay….”
…. Tôi là người rất dốt về âm nhạc, tôi thường khoe cái dốt về âm nhạc của tôi với bạn bè là tất cả những ký hiệu để viết thành một bản nhạc, tôi chỉ biết có mỗi khóa Sol.
Nói như vậy rõ ràng là…đối với Âm Nhạc tôi là một người mù; thưởng thức âm nhạc theo cách của tôi là cách… Người mù nghe gió kiếm. Hể cứ một bản nhạc nào chọc thẳng vào tâm trạng tôi, đào bới vào cái hoàn cảnh của tôi và nhứt là người diễn đạt lột trần được lời ca thì…tôi thấm.
Đăng Phương lần nầy đã làm tôi thấm…cái thấm của kẻ ghiền rượu mới ngửi được mùi beer đã say…Tôi lang thang cùng Đăng Phương qua Nỗi Buồn Đỉnh Cao
“-Tìm nhau những buổi chiều mưa
-Đạn rơi bom nổ đong đưa tháng ngày
-Những khi lòng đói mềm tay
-Chuyền nhau hơi ấm ai hay nỗi niềm?...”
Tôi lang thang cùng Đăng Phương vào Huế Nhớ Thương
“-Mấy năm rồi xa Huế nhớ gì không ?
-Mỗi con đường một kỷ niệm ngày xưa
-Những chiều mưa thẹn thùng buổi ban đầu
-Là hẹn hò âu yếm mãi ngàn sau…”
Thằng Huế nào lại không nhớ Huế, chuyện tầm thường bỏ đi , còn tôi ột dột mần răng cũng từng lăn cù mèo bởi vạc áo dài Sông Hương Núi Ngự quấn chân.
Tôi trùm chăn ký ức quyện tròn như hơi khói thuốc lào phà vào ly rượu mạnh, đang phê, rồi chợt lạnh… Đăng Phương đang hát, tưởng gì không tưởng lại TƯỞNG EM CHƯA CÓ CHỒNG (đó là tựa một bài hát cũng là tựa TẬP NHẠC ĐĂNG PHƯƠNG )
Ngày xưa, trong đời lính rày đây mai đó, lúc đất đỏ lúc rừng xanh, thời gian ngã nón chào phố, dù là phố núi hay phố quận đìu hiu, của tôi… cũng thật là ngắn ngủi bật rật. Tôi cũng đã từng… Theo Ngọ về và cũng đã từng té ngữa… vì Ngọ đã có chồng. Cái tò te dễ thương và cũng rất dễ bị đánh đòn…Tôi không hiểu người bạn tôi Đăng Phương, đã đụng hoàn cảnh nầy, trong lúc đó trái tim Huế 24 kara của Anh vẫn nguyên si hay teo lại vì se thắt. Tôi thì tôi mỗi lần như vậy tôi cứ ngờ ngợ tự tay mình mang con tim thả vào xô nước đá ngâm chai Champagne…Mùi vị Champagne thì bốc nồng, con tim thì teo riết
Cầm con dao mỗ làm một phẩu thuật thẩm mỹ, Bác sĩ Nguyễn Đăng Tri, bằng cái đầu đã đòi hỏi sự chính xác đến một phần trăm li, tự mình không cho phép một sự lầm lẫn nào. Cầm cây đờn Guitar, nhạc sĩ Đăng Phương bằng con tim, khi chùng khi căng…quờ quạng trong đam mê, thật thà trong tâm thức
“-Tôi ngồi hóa đá thành sông
-trả em nỗi nhớ mênh mông ngàn trùng
-Tôi ngồi hóa đá thành thơ
-Trả em một thuở dại khờ chớm yêu…”
Ngồi quán cà phê… tôi thường lượm lại bao cái cũ rích của nghĩ suy. Con tim khôn ngoan là con tim nên vứt đi, bởi lẽ…tình yêu chẳng phải là bài toán cộng mà cũng chẳng phải là bài toán trừ, tình yêu nó có thể là một ngọn lửa, một tảng băng… nó làm đam mê phừng phựt, nó làm đam mê run rẫy. Tôi cầu trời cho người bạn tôi không phải là một Nguyễn Đăng Tri mẫu mực mà là một nhạc sĩ Đăng Phương phiêu bạt… và dại khờ trong tình yêu cũng được! Được vậy từ anh tôi mới có những nốt nhạc lao đao trong quá khứ và mượt mà trong ngày tháng tha phương.
Trạch Gầm
Tiếng Vọng Đêm Khuya (Đợi Người Không Bao Giờ Đến)
Sữa chữa và tu bổ: 26 tháng 5, 2014 – Khăm Đi
Tôi không có ý viết một bài biên khảo, tham luận vì tôi không có thì giờ và phương tiện để làm chuyện đó. Tôi chỉ đưa lên đây những sự kiện rõ ràng mà ai cũng biết, nhưng không chịu suy nghĩ, chỉ ưa ùa nhau chưởi rủa một cách mù quáng, thù hận, đã 37 năm rồi trôi qua!
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nếu ông ta còn làm được một điều gì cho đất nước thì ông ta đã không từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975. Vì khi làm Tổng Thống, ông còn muốn sữa đổi Hiến Pháp để làm Tổng Thống thêm vài năm nữa. Khi ông từ chức, ông đã tuyên bố: Mất một Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ. Nhưng vì một lý do nào đó, mà quý vị và tôi sau này cũng đã biết, nên ông đã phải ra đi.
Trước khi ông đi, ông cũng trao quyền lại cho một người xứng đáng với chức vụ và sự tín nhiệm của nhân dân và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương - Cụ Trần Văn Hương rất xứng đáng với chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn khó khăn, lịch sử này. Nhưng nếu Tổng Thống Trần Văn Hương có thể làm được điều gì tốt đËp cho miŠn nam Việt Nam lúc bấy giờ, thì ông đã làm, và sẽ không từ chức. Khi ông từ chức, ông cũng đã có một lý do và một sự lựa chọn chính đáng rồi!
Sau cuộc triệt thoái Cao Nguyên, Quân đoàn II gần như tan rã. Sau cuộc triệt thoái Quân đoàn I và các đơn vị hùng hậu cho Quân Đoàn, Quân đoàn I cũng đã tan rã. Một số Tướng Lãnh chỉ huy Quân Đoàn I đã bị Mỹ cô lập, theo kế hoạch của họ. Quân nhân các cấp hoang mang, nao núng, lo tìm vợ, tìm con, tìm bạn bè, chiến hửu. Họ không còn niềm tin, và ý chí để chiến đấu nữa. Dân chúng cũng hốt hoảng, chạy ngược chạy xuôi tìm chồng, tìm con...
Tôi không muốn kê khai lòng vòng chuyện quân trang, quân dụng, vũ khí thiếu hụt, hư hỏng, và một số còn để lại ngoài chiến trường cho giặc khi di tản chiến thuật. Trong một bài lên mạng gần đây, người phụ trách xăng dầu cho Miền Nam Việt Nam đã nói rõ là xăng tiếp liệu cho Không Quân chỉ đủ để bay trong vòng một tuần vào những ngày cuối tháng Tư 75.
Trước khi ông Thiệu ra đi, một số quân nhân Không Quân, Hải Quân, nhân viên làm việc cho Mỹ và một số nhân viên cao cấp của chính quyền Miền Nam VN cũng đã ra đi...và có người đã bị bắt trở lại.
Sau khi ông Thiệu ra đi, Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân Tham Mưu Trưởng Quân Đội cũng tuyên bố lếu láo rồi cũng ra đi, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng lên giọng huynh hoang rồi cũng khăn gói ra đi.
Trong những ngày cuối tháng Tư 75, hầu như Không Quân, Hải Quân đã đi Phú Quốc, hay Hạm Đội Mỹ cả rồi. Một số Dân Biểu, Nghị Sĩ, Tổng Bộ Trưởng mới cuả chính phủ Nguyễn Bá Cẩn cũng đã ra đi trước ngày 30 tháng Tư 75. Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn ra đi ngày 28 tháng 4, 75.
Tôi là một quân nhân Biệt Động Quân, sau khi bị Việt Cộng bắt lúc 7 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, may mắn thoát được; nhưng vẫn phải phải lẩn quẩn trong thành phố Ban Mê, vì VC đã tràn ngập vào thành phố này rồi. Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột và Đại Tá Vũ Thế Quang Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 BB, kiêm Tư Lệnh Chiến Trường Ban Mê Thuột cũng bị VC bắt sau đó. Ngày 19 tháng 3/ 75, nhân vụ Không Quân VNCH dội bom vào Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB sau khi nơi này đã bị VC chiếm. Việt Cộng rút ra rừng phòng thủ. Tôi và 2 quân nhân BĐQ cùng đơn vị cũng băng rừng, lội suối vượt Trường Sơn... Ra Nha Trang, Nha Trang đã mất, chúng tôi đi Cam Ranh, Cam Ranh cũng đã mất. Nhân bắt được đài BBC nói Hạm Đội 7 của Mỹ từ Nhật Bản trên đường đến VN, dự trù sẽ di tản khoảng 50 mươi ngàn người có liên hệ với Mỹ, đi Mỹ ( chính sách của Mỹ đã hé lộ ). Tôi thầm nghĩ cơ hội đã đến! mặc dù tôi không có liên hệ gì trực tiếp với người Mỹ cả. Chúng tôi cố gắng, thầy trò lại khăn gói quả mướp đi đảo Bình Ba, ở đây VC cũng đã tràn ngập rồi. Chúng tôi lại tìm cách đi ghe cá về Vũng Tàu, thì cũng vừa đúng lúc Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất nguyên Chỉ Huy Trưởng BĐQ Quân Đoàn II, Quân Khu II và cũng là Vị Chỉ Huy trực tiếp cuộc triệt thoái cuả Quân Đoàn II , vừa đem quân về đây. Tôi và Chuẩn Tướng Tất chúc nhau sức khoẻ, may mắn! Chuẩn Tướng Tất đưa Quân về Biên Hòa, tôi đi Sài Gòn.
Về Sài Gòn, vui vẻ với gia đình vài hôm, tôi tìm cách xuất ngoại. Mẹ tôi khuyên nếu phải ra đi, con nên tìm phương tiện máy bay, đừng đi tàu thủy nguy hiểm lắm; vì mẹ đã có kinh nghiệm khi vượt thoát từ Qui Nhơn vào Sài Gòn bằng đường thủy rồi. Tôi có mấy người cháu là phi công, rủ nhau đi Phú Quốc vào những ngày cuối tháng Tư. Tôi cũng mong đi lắm, nhưng có lý do gì để được đi theo mấy cháu đâu.
Sáng 28 tháng Tư 75, một người cháu khác Đại Uý phi công Trực Thăng, nói chú ơi bọn F, Khu Trục, Vận Tải đi Phú Quốc, Hạm Đội cả rồi. Tôi vội vàng nhờ cháu chở qua nhà bà Trung Tá Hạnh Nhơn, Chỉ Huy Trưởng Nữ Quân Nhân Không Quân, vì trước khi đáo nhậm đơn vị BĐQ tôi là y sĩ giải phẩu tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa KQ ở Tân Sơn Nhứt nên cũng có chút thân tình với bà. Trung Tá Hạnh Nhơn đưa tôi vào Trung Tâm Y
Khoa KQ sáng 28 tháng Tư 75. Ở đây, tôi gặp lại mấy y tá quen cũ, chúng hỏi: sao BS không lên bộ tư lệnh lập danh sách đi Phú Quốc.
Tôi lò mò lên khối Y Khoa KQ, gặp Y Sĩ Thiếu Tá Cơ, tôi xin làm danh sách, ông ta nói trể quá và danh sách đã gởi đi rồi. Ông hỏi tôi đang ở đâu, tôi trả lời Trung Tâm Y Khoa KQ. Ông dặn tôi cứ ở đó, đừng về nhà, khi nào KQ dulu thì theo luôn. Chút thoáng buồn trôi qua, tôi gọi Đại Uý Ngô Ngọc Châu, tôi và ông ta thân nhau qua chuyện tôi chửa bệnh sưng khớp xương đầu gối cho ổng. Ông ta là pilot C130, Đại Uý Châu nói: ông cứ ở yên bên Trung Tâm Y khoa KQ, khi nào bọn tôi có lệnh dulu tôi sẽ đón ông.
Chiều 28 tháng Tư Đen, Tân Sơn Nhứt bị thả bom, pháo kích tơi bời, bệnh nhân không có BS chữa trị, vì ai dại gì vào đây lúc này. Tuy tôi không còn là BS của Không Quân nữa, tôi vẫn làm việc bình thường vì các y tá ở đây đã quen với lối sống và cách làm việc của tôi. Chúng tôi vui vẻ, hăng say làm việc với nhau, tôi làm được gì thì làm, những quân nhân bị thương qúa nặng tôi chuyển đi bệnh viện Cộng Hòa. Phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích suốt đêm, tôi là chiến sỉ từ tiền tuyến về đây nên chẳng nao núng gì hết, vẫn làm việc, vẫn đợi chờ... Nhưng đêm đã khuya, tôi vẫn còn nghe tiếng động cơ C130 rầm rì bay chuyến này sau chuyến khác, lần lượt chở mấy ông lớn, bà lớn và gia đình của họ đi Phú Quốc mà bồi hồi.
Ngày 29 tháng Tư 75, khoảng 9.30 sáng, Không Quân dulu Utapao - Thái Lan, tôi và Đại Úy Ngô Ngọc Châu cũng thoát đi trên một chuyến C130. Khi được thông báo là phi cơ đã rời kỏi không phận VN, tôi xúc động viết được lời cho ca khúc Nỗi Buồn Khôn Nguôi:
Không gì buồn bằng nỗi buồn ngày tôi xa quê,
Con tàu nhạt nhoà hình bóng thân yêu
Xóm làng còn nhớ mãi khôn nguôi!
Không gì buồn bằng nỗi buồn người dân lưu vong
Mong ngày trở về xây đắp quê Hương,
Thoả lòng mong ước nhớ thương…
Đăng Phương. (Huyền Thoại Một Chiều Mưa-Thanh Lan 2, 1984)
Đến khoảng 2 giờ chiều cùng ngày, nghe tin tức, Tân Sơn Nhứt, không còn một chiếc máy bay nào còn xử dụng được, mà không bay đi Utapao. Ngược lại ở phi trường Utapao thì có hàng trăm phi cơ đủ loại của Không Quân VNCH. Tại đây, cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH và phù hiệu KQ trên cánh và thân máy bay được xóa bỏ bằng sơn trắng. Đó là dấu hiệu cho thấy Quân L ực VNCH không còn nữa!
Sở dỉ tôi nói vòng vo tam quốc như vậy, vì Đại Tướng Dương Văn Minh đầu hàng Cộng Sản khoảng trưa ngày 30 tháng tư 75 khi Quân đội miền Nam VN không còn gì nữa để chiến đấu. Thủ Tướng VNCH kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và phu nhân, một Dân Biểu Quốc Hội VNCH, đã đi rồi, ngày 25 tháng 4, 75.
Không Quân không còn tàu bay, pilot, xăng để bay, không có bom để thả, không còn đạn để bắn, những tàu bay bị hư, không đủ parts để sửa. Không Quân theo tàu bay đã rời khỏi không phận VN rồi, đến Utapao Thái Lan trưa ngày 29 tháng 4, 1975.
Hải Quân theo tàu thuỷ cũng đã rời khỏi hải phận VN. Những chiếc 502, 503 vv... nếu còn chạy được thì cũng đã ra hạm đội cuả Mỹ cả rồi.
Bộ Binh , nay là một quân đội ô hợp, Tướng,Tá, Cấp Chỉ Huy không còn nửa, quân đội như rắn không đầu. Binh lính hoang mang, hốt hoảng, không còn tinh thần chiến đấu. Không đủ súng đạn, lương thực, quân số, tiếp vận, phương tiện ... thì có cách nào khác hơn là đầu hàng , để giử được sự bình an, bớt máu đổ, thịt rơi cho quần chúng. Và còn giử được nhà cửa cho dân, đường sá, cầu cống, trường học, chợ búa, nhà thờ, chùa chiền... nguyên vẹn cho mai sau.
Những Tướng Lãnh bỏ chạy trước ngày 30 tháng 4, 1975
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu: Tổng Thống VNCH, Tổng Tư Lệnh QLVNCH từ chức ngày 21 tháng Tư, 1975. Rời VN trên 1 chuyến bay do Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ Tổ Chức, ngày 25 tháng 4, 1975. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm: Thủ Tướng Kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng QLVNCH từ chức thượng tuần tháng Tư, 1975. Rời Việt Nam với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu ngày 25 tháng Tư, 1975. Đại Tướng Cao Văn Viên: Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Trung Tướng Đặng Văn Quang: Phụ Tá An Ninh Quốc Gia, Phủ Tổng Thống. Trung Tướng Lê Nguyên Khang: Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Trug Tướng Đồng Văn Khuyên: Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Trung Tướng Trần Văn Trung: Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Trung Tướng Phan Trọng Chinh: Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn: Tư Lệnh Quân Đoàn 3, Quân Khu 3. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh: Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Trung Tướng Trần Văn Minh: Tư Lệnh Không Quân. Trung Tướng Chung Tấn Cang: Tư Lệnh Hải Quân. Thiếu Tướng Lê Quang Lưởng: Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù Thiếu Tướng Bùi Thế Lân: Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình: Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Đặc Ủy Trưởng Tình Báo Trung Ương. Chuẩn Tướng Đổ Kiến Nhiểu: Đô Trưởng Sài Gòn. Đại Tá Lê Khắc LỶ: Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, QK 2. Và …..
Khi qua Mỹ, sau một thời gian ngắn, tôi đọc báo có thấy tin một ông Thiếu Tá chỉ huy một đơn vị 81 Biệt Cách Nhảy Dù (BCND, BCD) trước kia, chưởi bới om sòm về vụ Tướng Dương Văn Minh đầu hàng Cộng Sản -Tướng hèn, làm nhục cho Quân Đội. Không lấy trứng chọi đá được, ông ta giận hờn cáu kỉnh, buông lời nhục mạ...Nhưng nếu Đại Tướng Dương Văn Minh không đầu hàng Cộng Sản ngày 30 tháng Tư 75, liệu có còn ông Thiếu Tá BCD và gia đình ông ta bình yên, sống tự do trên đất Mỹ này không?
Chính phủ Mỹ cắt viện trợ, bó tay ông Thiệu, và cái kinh nghiệm thất thủ đau thương khi rút bỏ vùng II, vùng I, làm tan rả Quân Đội, nhân tâm xao xuyến, ông ta đã thấy rồi! Khi ông Thiệu, biết không làm được gì nữa, đã từ chức. Tổng Thống Trần Văn Hương và Nội Các mới cuả Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cũng thấy không làm được gì nữa khi chính phủ Mỹ đã quyết định dứt khoát, đành đoạn bỏ rơi VN, nên Cụ Trần Văn Hương cũng từ chức và tìm người thay thế Ông. Tướng Dương Văn Minh là người thích hợp cho vai trò này, và trong giai đoạn này nhất. Không lẽ ông Hương mời một Trung Sỉ, một Đại Úy, một Trung Tá, một Đại Tá, một Tướng lãnh Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, hay một Chính Khách nào đó, đã trốn chạy, xa bay về làm Tổng Thống thay thế ông ta, để đầu hàng Cộng Sản ư ?
Có nhiều quân nhân, và một số trí thức, giáo sư, luật sư vv... hỏi tại sao ông Minh không rút về vùng IV, để phòng thủ, đánh Cộng Sản mà phải đầu hàng; vì họ nghĩ rằng vùng IV còn nguyên vẹn, và an toàn. Cái nguyên vẹn bên ngoài, nhưng bên trong VC cũng đã xâm nhập, đục khoét nhiều rồi. Quân nhân các cấp của các quân, binh chủng và những vị Đại Tá giữ những chức vụ quan trọng cuả Quân Đoàn IV cũng đã tẩu thoát cả rồi. Các quân nhân, và những vị trí thức nói trên giống như mấy con ngựa bị che mắt chỉ thấy con đường trước mặt mà lầm lủi bước đi. Họ không có cái đầu và đôi mắt mở rộng để thấy rõ sự bế tắc của Chính Quyền Miền Nam Việt Nam, sự chênh lệch lực lượng, quân số, vũ khí đôi bên trong giai đoạn này. Họ cũng không biết về sự tháo chạy có sửa soạn, chuẩn bị kỹ càng của đồng minh Hoa Kỳ sau hòa đàm Ba Lê, để quân đội và chính quyền Miền Nam VN phải rơi vào cái thế chẳng đặng đừng- đầu hàng quân giặc.
Rút Quân Đoàn I, Quân Đòan II đã thất bại thê thảm rồi! rút cả QLVNCH về Vùng IV còn thê thảm biết bao nhiêu? Và sẽ còn biết bao nhiêu người sẽ phải chết trên con đường máu di tản này: Thủ Đô Sài Gòn - Vùng IV Chiến Thuật. Giá mà vất cái mũ để NGŨ được như ai đã nghĩ thì dân miền Nam VN còn thê thảm biết bao nhiêu nữa??? Mà cũng còn ai nữa để lo chuyện rút Quân, trang bị lại Quân Lực VNCH v.v... Như đã ghi ở trên, Tướng-Tá đã cao chạy xa bay cả rồi. Hay Ông Dương Văn Minh một mình lại phải nằm ngữa để kéo xe, súng đạn, và binh lính như bài nhạc Chuột Cắp Trứng mà Nhạc Sĩ Lê Cao Phan đã viết năm 1949.
Con chuột cắp trứng đi, không biết làm sao kéo đi
Liền gọi chú khác vô, chú kia bày mưu tức thì
Anh nằm ngửa bốn chân, anh lo ghì ôm trứng đi
Tôi thì kéo cái đuôi, kéo anh về hang tức thì.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nếu ông ta còn làm được một điều gì cho đất nước thì ông ta đã không từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975. Vì khi làm Tổng Thống, ông còn muốn sữa đổi Hiến Pháp để làm Tổng Thống thêm vài năm nữa. Khi ông từ chức, ông đã tuyên bố: Mất một Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ. Nhưng vì một lý do nào đó, mà quý vị và tôi sau này cũng đã biết, nên ông đã phải ra đi.
Trước khi ông đi, ông cũng trao quyền lại cho một người xứng đáng với chức vụ và sự tín nhiệm của nhân dân và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương - Cụ Trần Văn Hương rất xứng đáng với chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn khó khăn, lịch sử này. Nhưng nếu Tổng Thống Trần Văn Hương có thể làm được điều gì tốt đËp cho miŠn nam Việt Nam lúc bấy giờ, thì ông đã làm, và sẽ không từ chức. Khi ông từ chức, ông cũng đã có một lý do và một sự lựa chọn chính đáng rồi!
Sau cuộc triệt thoái Cao Nguyên, Quân đoàn II gần như tan rã. Sau cuộc triệt thoái Quân đoàn I và các đơn vị hùng hậu cho Quân Đoàn, Quân đoàn I cũng đã tan rã. Một số Tướng Lãnh chỉ huy Quân Đoàn I đã bị Mỹ cô lập, theo kế hoạch của họ. Quân nhân các cấp hoang mang, nao núng, lo tìm vợ, tìm con, tìm bạn bè, chiến hửu. Họ không còn niềm tin, và ý chí để chiến đấu nữa. Dân chúng cũng hốt hoảng, chạy ngược chạy xuôi tìm chồng, tìm con...
Tôi không muốn kê khai lòng vòng chuyện quân trang, quân dụng, vũ khí thiếu hụt, hư hỏng, và một số còn để lại ngoài chiến trường cho giặc khi di tản chiến thuật. Trong một bài lên mạng gần đây, người phụ trách xăng dầu cho Miền Nam Việt Nam đã nói rõ là xăng tiếp liệu cho Không Quân chỉ đủ để bay trong vòng một tuần vào những ngày cuối tháng Tư 75.
Trước khi ông Thiệu ra đi, một số quân nhân Không Quân, Hải Quân, nhân viên làm việc cho Mỹ và một số nhân viên cao cấp của chính quyền Miền Nam VN cũng đã ra đi...và có người đã bị bắt trở lại.
Sau khi ông Thiệu ra đi, Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân Tham Mưu Trưởng Quân Đội cũng tuyên bố lếu láo rồi cũng ra đi, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng lên giọng huynh hoang rồi cũng khăn gói ra đi.
Trong những ngày cuối tháng Tư 75, hầu như Không Quân, Hải Quân đã đi Phú Quốc, hay Hạm Đội Mỹ cả rồi. Một số Dân Biểu, Nghị Sĩ, Tổng Bộ Trưởng mới cuả chính phủ Nguyễn Bá Cẩn cũng đã ra đi trước ngày 30 tháng Tư 75. Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn ra đi ngày 28 tháng 4, 75.
Tôi là một quân nhân Biệt Động Quân, sau khi bị Việt Cộng bắt lúc 7 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, may mắn thoát được; nhưng vẫn phải phải lẩn quẩn trong thành phố Ban Mê, vì VC đã tràn ngập vào thành phố này rồi. Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột và Đại Tá Vũ Thế Quang Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 BB, kiêm Tư Lệnh Chiến Trường Ban Mê Thuột cũng bị VC bắt sau đó. Ngày 19 tháng 3/ 75, nhân vụ Không Quân VNCH dội bom vào Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB sau khi nơi này đã bị VC chiếm. Việt Cộng rút ra rừng phòng thủ. Tôi và 2 quân nhân BĐQ cùng đơn vị cũng băng rừng, lội suối vượt Trường Sơn... Ra Nha Trang, Nha Trang đã mất, chúng tôi đi Cam Ranh, Cam Ranh cũng đã mất. Nhân bắt được đài BBC nói Hạm Đội 7 của Mỹ từ Nhật Bản trên đường đến VN, dự trù sẽ di tản khoảng 50 mươi ngàn người có liên hệ với Mỹ, đi Mỹ ( chính sách của Mỹ đã hé lộ ). Tôi thầm nghĩ cơ hội đã đến! mặc dù tôi không có liên hệ gì trực tiếp với người Mỹ cả. Chúng tôi cố gắng, thầy trò lại khăn gói quả mướp đi đảo Bình Ba, ở đây VC cũng đã tràn ngập rồi. Chúng tôi lại tìm cách đi ghe cá về Vũng Tàu, thì cũng vừa đúng lúc Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất nguyên Chỉ Huy Trưởng BĐQ Quân Đoàn II, Quân Khu II và cũng là Vị Chỉ Huy trực tiếp cuộc triệt thoái cuả Quân Đoàn II , vừa đem quân về đây. Tôi và Chuẩn Tướng Tất chúc nhau sức khoẻ, may mắn! Chuẩn Tướng Tất đưa Quân về Biên Hòa, tôi đi Sài Gòn.
Về Sài Gòn, vui vẻ với gia đình vài hôm, tôi tìm cách xuất ngoại. Mẹ tôi khuyên nếu phải ra đi, con nên tìm phương tiện máy bay, đừng đi tàu thủy nguy hiểm lắm; vì mẹ đã có kinh nghiệm khi vượt thoát từ Qui Nhơn vào Sài Gòn bằng đường thủy rồi. Tôi có mấy người cháu là phi công, rủ nhau đi Phú Quốc vào những ngày cuối tháng Tư. Tôi cũng mong đi lắm, nhưng có lý do gì để được đi theo mấy cháu đâu.
Sáng 28 tháng Tư 75, một người cháu khác Đại Uý phi công Trực Thăng, nói chú ơi bọn F, Khu Trục, Vận Tải đi Phú Quốc, Hạm Đội cả rồi. Tôi vội vàng nhờ cháu chở qua nhà bà Trung Tá Hạnh Nhơn, Chỉ Huy Trưởng Nữ Quân Nhân Không Quân, vì trước khi đáo nhậm đơn vị BĐQ tôi là y sĩ giải phẩu tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa KQ ở Tân Sơn Nhứt nên cũng có chút thân tình với bà. Trung Tá Hạnh Nhơn đưa tôi vào Trung Tâm Y
Khoa KQ sáng 28 tháng Tư 75. Ở đây, tôi gặp lại mấy y tá quen cũ, chúng hỏi: sao BS không lên bộ tư lệnh lập danh sách đi Phú Quốc.
Tôi lò mò lên khối Y Khoa KQ, gặp Y Sĩ Thiếu Tá Cơ, tôi xin làm danh sách, ông ta nói trể quá và danh sách đã gởi đi rồi. Ông hỏi tôi đang ở đâu, tôi trả lời Trung Tâm Y Khoa KQ. Ông dặn tôi cứ ở đó, đừng về nhà, khi nào KQ dulu thì theo luôn. Chút thoáng buồn trôi qua, tôi gọi Đại Uý Ngô Ngọc Châu, tôi và ông ta thân nhau qua chuyện tôi chửa bệnh sưng khớp xương đầu gối cho ổng. Ông ta là pilot C130, Đại Uý Châu nói: ông cứ ở yên bên Trung Tâm Y khoa KQ, khi nào bọn tôi có lệnh dulu tôi sẽ đón ông.
Chiều 28 tháng Tư Đen, Tân Sơn Nhứt bị thả bom, pháo kích tơi bời, bệnh nhân không có BS chữa trị, vì ai dại gì vào đây lúc này. Tuy tôi không còn là BS của Không Quân nữa, tôi vẫn làm việc bình thường vì các y tá ở đây đã quen với lối sống và cách làm việc của tôi. Chúng tôi vui vẻ, hăng say làm việc với nhau, tôi làm được gì thì làm, những quân nhân bị thương qúa nặng tôi chuyển đi bệnh viện Cộng Hòa. Phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích suốt đêm, tôi là chiến sỉ từ tiền tuyến về đây nên chẳng nao núng gì hết, vẫn làm việc, vẫn đợi chờ... Nhưng đêm đã khuya, tôi vẫn còn nghe tiếng động cơ C130 rầm rì bay chuyến này sau chuyến khác, lần lượt chở mấy ông lớn, bà lớn và gia đình của họ đi Phú Quốc mà bồi hồi.
Ngày 29 tháng Tư 75, khoảng 9.30 sáng, Không Quân dulu Utapao - Thái Lan, tôi và Đại Úy Ngô Ngọc Châu cũng thoát đi trên một chuyến C130. Khi được thông báo là phi cơ đã rời kỏi không phận VN, tôi xúc động viết được lời cho ca khúc Nỗi Buồn Khôn Nguôi:
Không gì buồn bằng nỗi buồn ngày tôi xa quê,
Con tàu nhạt nhoà hình bóng thân yêu
Xóm làng còn nhớ mãi khôn nguôi!
Không gì buồn bằng nỗi buồn người dân lưu vong
Mong ngày trở về xây đắp quê Hương,
Thoả lòng mong ước nhớ thương…
Đăng Phương. (Huyền Thoại Một Chiều Mưa-Thanh Lan 2, 1984)
Đến khoảng 2 giờ chiều cùng ngày, nghe tin tức, Tân Sơn Nhứt, không còn một chiếc máy bay nào còn xử dụng được, mà không bay đi Utapao. Ngược lại ở phi trường Utapao thì có hàng trăm phi cơ đủ loại của Không Quân VNCH. Tại đây, cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH và phù hiệu KQ trên cánh và thân máy bay được xóa bỏ bằng sơn trắng. Đó là dấu hiệu cho thấy Quân L ực VNCH không còn nữa!
Sở dỉ tôi nói vòng vo tam quốc như vậy, vì Đại Tướng Dương Văn Minh đầu hàng Cộng Sản khoảng trưa ngày 30 tháng tư 75 khi Quân đội miền Nam VN không còn gì nữa để chiến đấu. Thủ Tướng VNCH kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và phu nhân, một Dân Biểu Quốc Hội VNCH, đã đi rồi, ngày 25 tháng 4, 75.
Không Quân không còn tàu bay, pilot, xăng để bay, không có bom để thả, không còn đạn để bắn, những tàu bay bị hư, không đủ parts để sửa. Không Quân theo tàu bay đã rời khỏi không phận VN rồi, đến Utapao Thái Lan trưa ngày 29 tháng 4, 1975.
Hải Quân theo tàu thuỷ cũng đã rời khỏi hải phận VN. Những chiếc 502, 503 vv... nếu còn chạy được thì cũng đã ra hạm đội cuả Mỹ cả rồi.
Bộ Binh , nay là một quân đội ô hợp, Tướng,Tá, Cấp Chỉ Huy không còn nửa, quân đội như rắn không đầu. Binh lính hoang mang, hốt hoảng, không còn tinh thần chiến đấu. Không đủ súng đạn, lương thực, quân số, tiếp vận, phương tiện ... thì có cách nào khác hơn là đầu hàng , để giử được sự bình an, bớt máu đổ, thịt rơi cho quần chúng. Và còn giử được nhà cửa cho dân, đường sá, cầu cống, trường học, chợ búa, nhà thờ, chùa chiền... nguyên vẹn cho mai sau.
Những Tướng Lãnh bỏ chạy trước ngày 30 tháng 4, 1975
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu: Tổng Thống VNCH, Tổng Tư Lệnh QLVNCH từ chức ngày 21 tháng Tư, 1975. Rời VN trên 1 chuyến bay do Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ Tổ Chức, ngày 25 tháng 4, 1975. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm: Thủ Tướng Kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng QLVNCH từ chức thượng tuần tháng Tư, 1975. Rời Việt Nam với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu ngày 25 tháng Tư, 1975. Đại Tướng Cao Văn Viên: Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Trung Tướng Đặng Văn Quang: Phụ Tá An Ninh Quốc Gia, Phủ Tổng Thống. Trung Tướng Lê Nguyên Khang: Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Trug Tướng Đồng Văn Khuyên: Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Trung Tướng Trần Văn Trung: Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Trung Tướng Phan Trọng Chinh: Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn: Tư Lệnh Quân Đoàn 3, Quân Khu 3. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh: Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Trung Tướng Trần Văn Minh: Tư Lệnh Không Quân. Trung Tướng Chung Tấn Cang: Tư Lệnh Hải Quân. Thiếu Tướng Lê Quang Lưởng: Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù Thiếu Tướng Bùi Thế Lân: Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình: Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Đặc Ủy Trưởng Tình Báo Trung Ương. Chuẩn Tướng Đổ Kiến Nhiểu: Đô Trưởng Sài Gòn. Đại Tá Lê Khắc LỶ: Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, QK 2. Và …..
Khi qua Mỹ, sau một thời gian ngắn, tôi đọc báo có thấy tin một ông Thiếu Tá chỉ huy một đơn vị 81 Biệt Cách Nhảy Dù (BCND, BCD) trước kia, chưởi bới om sòm về vụ Tướng Dương Văn Minh đầu hàng Cộng Sản -Tướng hèn, làm nhục cho Quân Đội. Không lấy trứng chọi đá được, ông ta giận hờn cáu kỉnh, buông lời nhục mạ...Nhưng nếu Đại Tướng Dương Văn Minh không đầu hàng Cộng Sản ngày 30 tháng Tư 75, liệu có còn ông Thiếu Tá BCD và gia đình ông ta bình yên, sống tự do trên đất Mỹ này không?
Chính phủ Mỹ cắt viện trợ, bó tay ông Thiệu, và cái kinh nghiệm thất thủ đau thương khi rút bỏ vùng II, vùng I, làm tan rả Quân Đội, nhân tâm xao xuyến, ông ta đã thấy rồi! Khi ông Thiệu, biết không làm được gì nữa, đã từ chức. Tổng Thống Trần Văn Hương và Nội Các mới cuả Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cũng thấy không làm được gì nữa khi chính phủ Mỹ đã quyết định dứt khoát, đành đoạn bỏ rơi VN, nên Cụ Trần Văn Hương cũng từ chức và tìm người thay thế Ông. Tướng Dương Văn Minh là người thích hợp cho vai trò này, và trong giai đoạn này nhất. Không lẽ ông Hương mời một Trung Sỉ, một Đại Úy, một Trung Tá, một Đại Tá, một Tướng lãnh Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, hay một Chính Khách nào đó, đã trốn chạy, xa bay về làm Tổng Thống thay thế ông ta, để đầu hàng Cộng Sản ư ?
Có nhiều quân nhân, và một số trí thức, giáo sư, luật sư vv... hỏi tại sao ông Minh không rút về vùng IV, để phòng thủ, đánh Cộng Sản mà phải đầu hàng; vì họ nghĩ rằng vùng IV còn nguyên vẹn, và an toàn. Cái nguyên vẹn bên ngoài, nhưng bên trong VC cũng đã xâm nhập, đục khoét nhiều rồi. Quân nhân các cấp của các quân, binh chủng và những vị Đại Tá giữ những chức vụ quan trọng cuả Quân Đoàn IV cũng đã tẩu thoát cả rồi. Các quân nhân, và những vị trí thức nói trên giống như mấy con ngựa bị che mắt chỉ thấy con đường trước mặt mà lầm lủi bước đi. Họ không có cái đầu và đôi mắt mở rộng để thấy rõ sự bế tắc của Chính Quyền Miền Nam Việt Nam, sự chênh lệch lực lượng, quân số, vũ khí đôi bên trong giai đoạn này. Họ cũng không biết về sự tháo chạy có sửa soạn, chuẩn bị kỹ càng của đồng minh Hoa Kỳ sau hòa đàm Ba Lê, để quân đội và chính quyền Miền Nam VN phải rơi vào cái thế chẳng đặng đừng- đầu hàng quân giặc.
Rút Quân Đoàn I, Quân Đòan II đã thất bại thê thảm rồi! rút cả QLVNCH về Vùng IV còn thê thảm biết bao nhiêu? Và sẽ còn biết bao nhiêu người sẽ phải chết trên con đường máu di tản này: Thủ Đô Sài Gòn - Vùng IV Chiến Thuật. Giá mà vất cái mũ để NGŨ được như ai đã nghĩ thì dân miền Nam VN còn thê thảm biết bao nhiêu nữa??? Mà cũng còn ai nữa để lo chuyện rút Quân, trang bị lại Quân Lực VNCH v.v... Như đã ghi ở trên, Tướng-Tá đã cao chạy xa bay cả rồi. Hay Ông Dương Văn Minh một mình lại phải nằm ngữa để kéo xe, súng đạn, và binh lính như bài nhạc Chuột Cắp Trứng mà Nhạc Sĩ Lê Cao Phan đã viết năm 1949.
Con chuột cắp trứng đi, không biết làm sao kéo đi
Liền gọi chú khác vô, chú kia bày mưu tức thì
Anh nằm ngửa bốn chân, anh lo ghì ôm trứng đi
Tôi thì kéo cái đuôi, kéo anh về hang tức thì.
Oh, vất cái mũ nằm NGŨ!!! (êm) qúa đi thôi!
Hết rồi, đi hết rồi ! Quân Đội VNCH chỉ còn những vị anh hùng như Tướng Hưng, Tướng Nam, Tướng Vỹ, Tướng Hai, Tướng Phú... tuẩn tiết để giử tiếng thơm muôn đời cho hậu thế. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vị chỉ huy tài ba, một chiến sĩ xuất sắc cuả Chương Thiện cũng đã bị Việt Cộng sát hại.
Nhân dân VN Cộng Hòa, có nhiều người còn thù hận Tướng Dương Văn Minh vì nghĩ rằng ông là thành phần Phật Giáo, làm Cách Mạng để lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu - để sau này, ngày 30 tháng Tư 75 - đất nước điêu linh. Nhiều người cũng nghĩ rằng ông ta có người em ruột là một tướng Cộng Sản miền Bắc, và vì ông tin tưởng vào thành phần thứ ba, nên đầu hàng Cộng Sản.
Biết nói gì đây ? khi hai đường đời ngăn chia mình rồi! (nhạc Huỳnh Anh)
Cho đến bây giờ nhiều người còn đưa lên mạng chuyện Đại Tướng Dương Văn Minh là thủ phạm giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu để tránh tiếng cho người còn sống!
Nhớ lại Cách Mạng ngày 1 tháng 11 năm 1963…, Người mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm tin cậy nhất, mong đợi nhất trong giờ phút quan trọng lịch sữ nhất ngày 2 tháng 11 năm 1963 để có thể cứu Ông ta là Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, người mà đã cứu Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1960 khi ông ta là Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Sau đó, Đại Tá Trần Thiện Khiêm được Tổng Thống Ngô Đình Diêm đặc biệt tin cẩn và vinh thăng Thiếu Tướng, bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Quân Lực VNCH, nơi mà sau này là cơ quan đầu não của Cách Mạng 1-11-1963. On ne fait pas d’omelette sans casser les ỵufs ~ Lucien Emile Conein, trùm CIA ở VN vào giai đoạn đó, ông ta ngồi nhắc tuồng ở đằng sau văn phòng của Đại Tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu, trong lúc Cách Mạng đang xảy ra. Theo Ông Nguyễn Văn Ngân: Chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã khẳng định rằng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm là nhân viên (agent) CIA.Tướng Khiêm chỉ huy cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm1963 (Đợi Người Không Bao Giờ Đến), Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đưa SĐ 5 về thực hiện cuộc đảo chánhẨSau này họ là Thủ Tướng, Tổng Thống VNCH đào ngũ, bỏ chạy ngày 25 tháng Tư, 1975.
Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, Lễ bàn giao giữa Tổng Thống Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh, được tổ chức nghiêm trang và trọng thể tại Dinh Độc Lập.
Lời của Tổng Thống Trần Văn Hương :
Làm thế nào cho dân được sống yên, làm thế nào cho máu đừng đổ, thịt đừng rơi thì công của Đại Tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời. Dầu thế nào, tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của Đại Tướng.
Đọc lâu mỏi mắt, kính mời quý vị vào YouTube : Giã Từ Biển Khơi-Đăng Phương để nghe nhạc, có hình tác giả bên con tàu mắc cạn thời Pháp thuộc.
Khăm Đi.
Ngày 10 tháng Sáu, 2012.
Hết rồi, đi hết rồi ! Quân Đội VNCH chỉ còn những vị anh hùng như Tướng Hưng, Tướng Nam, Tướng Vỹ, Tướng Hai, Tướng Phú... tuẩn tiết để giử tiếng thơm muôn đời cho hậu thế. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vị chỉ huy tài ba, một chiến sĩ xuất sắc cuả Chương Thiện cũng đã bị Việt Cộng sát hại.
Nhân dân VN Cộng Hòa, có nhiều người còn thù hận Tướng Dương Văn Minh vì nghĩ rằng ông là thành phần Phật Giáo, làm Cách Mạng để lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu - để sau này, ngày 30 tháng Tư 75 - đất nước điêu linh. Nhiều người cũng nghĩ rằng ông ta có người em ruột là một tướng Cộng Sản miền Bắc, và vì ông tin tưởng vào thành phần thứ ba, nên đầu hàng Cộng Sản.
Biết nói gì đây ? khi hai đường đời ngăn chia mình rồi! (nhạc Huỳnh Anh)
Cho đến bây giờ nhiều người còn đưa lên mạng chuyện Đại Tướng Dương Văn Minh là thủ phạm giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu để tránh tiếng cho người còn sống!
Nhớ lại Cách Mạng ngày 1 tháng 11 năm 1963…, Người mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm tin cậy nhất, mong đợi nhất trong giờ phút quan trọng lịch sữ nhất ngày 2 tháng 11 năm 1963 để có thể cứu Ông ta là Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, người mà đã cứu Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1960 khi ông ta là Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Sau đó, Đại Tá Trần Thiện Khiêm được Tổng Thống Ngô Đình Diêm đặc biệt tin cẩn và vinh thăng Thiếu Tướng, bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Quân Lực VNCH, nơi mà sau này là cơ quan đầu não của Cách Mạng 1-11-1963. On ne fait pas d’omelette sans casser les ỵufs ~ Lucien Emile Conein, trùm CIA ở VN vào giai đoạn đó, ông ta ngồi nhắc tuồng ở đằng sau văn phòng của Đại Tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu, trong lúc Cách Mạng đang xảy ra. Theo Ông Nguyễn Văn Ngân: Chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã khẳng định rằng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm là nhân viên (agent) CIA.Tướng Khiêm chỉ huy cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm1963 (Đợi Người Không Bao Giờ Đến), Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đưa SĐ 5 về thực hiện cuộc đảo chánhẨSau này họ là Thủ Tướng, Tổng Thống VNCH đào ngũ, bỏ chạy ngày 25 tháng Tư, 1975.
Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, Lễ bàn giao giữa Tổng Thống Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh, được tổ chức nghiêm trang và trọng thể tại Dinh Độc Lập.
Lời của Tổng Thống Trần Văn Hương :
Làm thế nào cho dân được sống yên, làm thế nào cho máu đừng đổ, thịt đừng rơi thì công của Đại Tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời. Dầu thế nào, tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của Đại Tướng.
Đọc lâu mỏi mắt, kính mời quý vị vào YouTube : Giã Từ Biển Khơi-Đăng Phương để nghe nhạc, có hình tác giả bên con tàu mắc cạn thời Pháp thuộc.
Khăm Đi.
Ngày 10 tháng Sáu, 2012.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)